Nữ trí thức Phật giáo với cách mạng công nghiệp 4.0 (Ni sư Thích Nữ Diệu Tâm)

Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của xã hội. Thực hiện thành công cuộc CMCN 4.0 là một chiến lược “đi trước, đón đầu” để Việt Nam trở thành quốc gia “khởi nghiệp”, tạo bước “đột phá” trong quá trình phát triển nhanh, bền vững; khẳng định vị trí, tầm vóc của Việt Nam trong khu vực và thế giới. Là một trong những nguồn lực quan trọng của Phật giáo nói riêng, trong những năm qua nữ trí thức Phật giáo không ngừng phát triển và có sự đóng góp tích cực trong quá trình hội nhập và phát triển của đất nước và Phật giáo. Vì thế, trong bài viết, tác giả đi sâu làm rõ vai trò của nữ trí thức Phật giáo trong những năm qua, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của nữ trí thức Phật giáo trong CMCN 4.0.

CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược phát triển cho riêng mình. Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng nên đưa ra nhiều chủ trương, biện pháp tận dụng thành tựu của cuộc cách mạng này. Một trong những chủ trương quan trọng là xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là yếu tố chủ thể quyết định mọi thành công để đón đầu và tận dụng hiệu quả CMCN 4.0. Nguồn lực nữ trí thức Phật giáo trong CMCN 4.0 trên tất cả các lĩnh vực có ý nghĩa không chỉ với Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà còn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì thế, vai trò, vị trí của đội ngũ nữ trí thức Phật giáo là một thành tố góp phần phát huy tổng lực của quốc gia trong bối cảnh hiện nay.

NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC PHẬT GIÁO

Ngay từ khi mới du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã được quần chúng nhân dân đón nhận một cách nhiệt tình bởi tư tưởng Phật giáo rất gần gũi với văn hóa, tín ngưỡng dân tộc Việt Nam thông qua những giá trị đạo đức như: tinh thần từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, rất gần gũi với tâm tư tình cảm của người dân Việt. Tư tưởng “từ bi bác ái cứu khổ cứu nạn” của nhà Phật đã hòa quyện với tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa của Việt Nam. Ni giới là một bộ phận quan trọng, đóng góp to lớn cho tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Trong bài viết, tác giả đi sâu làm rõ vai trò của nữ trí thức Phật giáo trong những năm qua, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của nữ trí thức Phật giáo trong CMCN 4.0.

Trong thời hiện đại, sự ra đời và phát triển của Phân ban Ni giới Trung ương thuộc Ban Tăng sự Trung ương là một tất yếu khách quan. Ni giới Việt Nam thời gian gần đây đang góp phần vào quá trình phát triển đất nước và Giáo hội. Qua các kỳ đại hội Phật giáo, có thể thấy Ni giới ngày càng khẳng định vai trò của mình trong các lĩnh vực hoạt động trong Giáo hội. Hội nghị Sakyadhita – Hội nghị Ni giới thế giới được thành lập năm 1987, tập hợp đông đảo mọi thành phần Ni giới trong Phật giáo nhằm tạo ra sự phát triển cao nhất của Phật giáo thông qua vai trò của Ni giới trong Giáo hội. Được sự cho phép của Chính phủ, Phật giáo Việt Nam đã tổ chức hội nghị của Ni giới thế giới lần thứ XI từ ngày 28/12/2009 đến ngày 03/01/2010 tại Trung tâm văn hóa Thành Hội Phật giáo TP HCM thành công tốt đẹp.

Hiện nay ở Việt Nam, Tăng Ni trí thức Phật giáo cả nước có khoảng hơn 600 tiến sĩ, hàng nghìn thạc sĩ và cử nhân được đào tạo chủ yếu ở Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Trong đó, nữ trí thức có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ ngày càng đông so với thời gian trước đây. Ngoài ra, một số nữ trí thức Phật giáo đã vượt qua mọi khó khăn, định kiến học nghiên cứu sinh ở một số quốc gia trên thế giới: Sri Lanka, Hàn Quốc, Nhật Bản… ở nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau: Triết học Phật giáo, Tôn giáo học, Ngôn ngữ học, Tâm lý học, Y khoa,… Có thể thấy, so với các ngành, lĩnh vực khác thì nữ trí thức Phật giáo còn khiêm tốn, song đây là thành tựu đáng ghi nhận của Phân ban Ni giới Giáo hội Phật giáo Việt Nam so với Phật giáo quốc tế và một số tôn giáo khác.

Trong thời đại công nghệ 4.0, Ni giới Việt Nam “nhập thế bằng công cụ của chính thời công nghiệp mới, số hóa và vận dụng thế giới mạng Internet và phương tiện truyền thông hiện đại đa phương tiện, luôn luôn và tức thời để Phật tử có thể tiếp cận được với Phật Pháp” [1]. Hình ảnh nữ giới Phật giáo Việt Nam song hành cùng nữ giới Phật giáo thế giới trong việc tu tập và lãnh đạo trong nước cũng như ủng hộ các Phật sự quốc tế đã được khẳng định; nhiều vị Ni lỗi lạc trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và các nước được kính trọng; các vị Ni chủ động tuyên dương, truyền trao chính pháp và khả năng nhập thế phụng sự của Ni giới; khuyến tấn nữ trí thức Phật giáo phát triển; nâng cao sự gắn kết cộng đồng nữ Phật tử Phật giáo; đề cao lối sống trung đạo; yêu mến, tôn trọng và bảo vệ môi trường; khuyến khích định hướng chư Ni trẻ làm quen với công nghệ 4.0; tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc phù hợp với tinh thần Phật giáo; tôn trọng những phương pháp thực hành Phật pháp của các tông phái. Những tấm gương Ni giới thời hiện đại điển hình của Việt Nam có Ni sư Trí Hải, Ni trưởng Đàm Tín, Ni trưởng Đàm Hữu, Ni trưởng Huỳnh Liên, Ni trưởng Đàm Xương,… được đông đảo bạn bè quốc tế biết đến.

Trong thời đại công nghệ 4.0, Ni giới Việt Nam “nhập thế bằng công cụ của chính thời công nghiệp mới, số hóa và vận dụng thế giới mạng Internet và phương tiện truyền thông hiện đại đa phương tiện, luôn luôn và tức thời để Phật tử có thể tiếp cận được với Phật Pháp”.

Qua ba lần tổ chức Phật đản Vesak Liên Hiệp Quốc, Ni giới Việt Nam đã góp phần không nhỏ trên các lĩnh vực học thuật, từ thiện, thiết kế, ngoại giao. Nhất là trong thời đại 4.0, nhiều chư Ni vận dụng thành công những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào công cuộc hoằng pháp, góp phần đưa hình ảnh đất nước con người Việt Nam vươn ra hội nhập quốc tế. Nhiều chư Ni du học trở về biết nhiều ngôn ngữ khác nhau, được trang bị đầy đủ pháp học và pháp hành.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam với phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” luôn đồng hành cùng dân tộc. Phật giáo ứng dụng công nghệ 4.0 trong các công việc “Phật sự và hoằng dương chính pháp lợi lạc quần sinh”. Ứng dụng công nghệ 4.0 vào việc tổ chức quản lý công việc của Giáo hội và các ban, ngành, viện,… Quản lý thống nhất theo hệ thống từ Trung ương đến cơ sở về mặt cơ cấu tổ chức, nhân sự, tài sản dựa vào các phần mềm số hóa, mạng liên thông và đã đạt được thành tựu nhất định. Khó khăn đặt ra là phải kiểm soát toàn bộ hệ thống thông tin nêu trên, tránh bị đánh cắp dữ liệu, chiếm quyền kiểm soát hệ thống và luôn phải có biện pháp bảo vệ an toàn dữ liệu.

Ứng dụng công nghệ 4.0 vào công tác giáo dục đào tạo của Giáo hội. Hiện “cả nước có 35 trường trung cấp Phật học, 8 trường cao đẳng Phật học, 4 học viện Phật giáo” [2]. Một số trường sử dụng hệ thống thư viện điện tử trong quá trình học tập và tra cứu của Tăng Ni sinh, từng bước tiệm cận nền giáo dục số hóa hiện đại của các nước trong khu vực và trên thế giới.  

Đối với công tác từ thiện an sinh xã hội – phương diện thường được nhìn nhận như một sự thể hiện nhập thế rõ ràng của Phật giáo. Làm việc từ thiện tình nguyện, vô tư là thuộc tính của Phật giáo. Các hoạt động từ thiện Phật giáo hướng tới có thể là kỷ niệm, thăm hỏi động viên các cá nhân không may mắn trong bệnh viện, tri ân người có công với đất nước trong các ngày lễ, thành lập các câu lạc bộ thanh thiếu niên, các khóa huấn luyện kỹ năng… tu sĩ và Phật tử, mạnh thường quân, khi biết tận dụng tính tích cực của internet trong phát động, quảng bá hình ảnh cho các hoạt động từ thiện xã hội nhằm thu hút sự tham gia đông đảo và có hiệu quả của mọi người.

Công tác hoằng pháp và truyền thông Phật giáo có sự tương quan mật thiết với nhau. Hoằng pháp là phát triển, khiến Phật pháp lan rộng xã hội nhân quần bằng nhiều phương thức khác nhau. Truyền thông theo nghĩa hẹp đó là hình thái hoằng pháp bằng phương tiện đặc biệt, ứng dụng phương tiện truyền thông nhằm lan rộng sự nhập thế của Phật giáo. Do đó sự phát triển CMCN 4.0 với những đặc trưng của nó sẽ giúp ích rất lớn cho việc lan tỏa công tác hoằng pháp và giúp ích cho công tác truyền thông.

Trong thời gian tới, trên bước đường phát triển tiếp theo của Phật giáo, đòi hỏi cần cái nhìn đúng hơn, thực tế hơn về vai trò của Ni giới để phát huy được nhận thức trong sáng làm “ích đạo, lợi đời”. Như vậy, chúng ta mới tận dụng được chất xám của nữ trí thức Phật giáo trong xã hội, vừa thể hiện được chân lý bình đẳng của Đức Phật, xây dựng một thế giới Ta-bà hiện tại được an vui hạnh phúc và phát triển bền vững.

GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NI GIỚI TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI THỜI KỲ CMCN 4.0

Để phát huy hơn nữa vai trò của Ni giới Việt Nam trong thời kỳ CMCN 4.0 như hiện nay, theo quan điểm chúng tôi, Ni giới Việt Nam cần chú trọng một số điểm sau:

Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của Ni giới Việt Nam về sự phát triển như vũ bão của CMCN 4.0. Tính tất yếu của sự phát triển khoa học kĩ thuật hiện đại của thế giới; nâng cao nhận thức, sự thích ứng của Ni giới về việc sử dụng hợp lí, hiệu quả, có chọn lọc các thiết bị hiện đại phục vụ quá trình tu tập, hoằng pháp. Việc này cần có sự tiên phong của chư Tôn đức Ni có uy tín làm công tác giảng dạy, hướng dẫn tu tập, lựa chọn nội dung, chương trình, biện pháp, kiến thức phù hợp với giáo lý nhà Phật, tuân thủ pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, thông qua các hoạt động hoằng pháp, các hoạt động từ thiện xã hội chư Ni tác động lan tỏa đến quần chúng tín đồ Phật tử về vai trò, tính tích cực cũng như mặt trái của cuộc CMCN 4.0, về giá trị đạo đức phù hợp văn hóa bản sắc dân tộc, lấy Giới luật làm căn bản. CMCN 4.0 sẽ thay đổi qua bản sắc văn hóa, lối sống, cách làm việc… Thông qua các buổi giảng pháp, việc hướng dẫn tu tập, cần định hướng cho Phật tử nhận thức đúng đắn về cuộc CMCN 4.0, tự hoàn thiện mình về “thân giáo và khẩu giáo” để trang nghiêm Giáo hội, đáp ứng kịp thời xu thế của xã hội hiện đại.

Ni giới là một bộ phận quan trọng, đóng góp to lớn cho tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Thứ ba, bản thân chư Ni cần phải không ngừng trau dồi phước – huệ song tu. Từ thời Đức Phật, Ni đoàn được thành lập là cơ hội lớn cho Ni chúng có điều kiện “tiến đức nghiêm thân”. Đây là một ân đức lớn mà Đức Phật dành cho Ni giới. Để tỏ lòng tri ân với Đức Phật, Ni chúng cần phải cố gắng nỗ lực thúc liễm thân tâm, trau dồi Giới – Định – Tuệ để vững bước trên con đường tu tập, ngoài kiến thức về ngoại ngữ tin học, khả năng sử dụng công nghệ trong quá trình tu tập, hoằng pháp của mình. Như vậy, so với việc hoằng pháp truyền thống, thì đây là cuộc cách mạng lớn, mang tính tất yếu hiện nay.

Có thể nói, trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Trung ương Giáo hội, Ni giới Việt Nam luôn nỗ lực không ngừng, đồng hành cùng với quá trình phát triển và hội nhập của đất nước. Hiện nay, Việt Nam đang có sự trỗi dậy mạnh mẽ, kết nối với các quốc gia trên thế giới đó là điều tất yếu và đáng vui mừng trong thời kỳ hội nhập quốc tế, thời kỳ cuộc CMCN 4.0. Ni giới Việt Nam đã và đang có những hành động cụ thể nhằm khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình thông qua các tổ chức sự kiện, hội thảo khoa học, tổ chức Đại lễ Phật Đản, Đại lễ Vu Lan báo hiếu, … Đặc biệt, đã tổ chức thành công trong việc sử dụng công nghệ thông tin bằng trang Phật Sự Online, Đài truyền hình An Viên,…

Trong thời gian tới, trên bước đường phát triển tiếp theo của Phật giáo, đòi hỏi cần cái nhìn đúng hơn, thực tế hơn về vai trò của Ni giới như thế mới không lãng phí chất xám, đồng thời thể hiện được chân lý bình đẳng của Đức Phật. Ngoài ra, cần phát huy những tấm gương sáng của Ni giới Phật giáo trong các hoạt động xã hội nhằm “ích đạo, lợi đời”, nhanh chóng hội nhập cùng xu thế cuộc CMCN 4.0.

 

Chú thích:

* Ni sư Thích Nữ Diệu Tâm – Chánh Văn phòng kiêm Trưởng ban Phật giáo quốc tế Phân ban Ni giới Trung ương khu vực phía Bắc.

[1] Viện Trần Nhân Tông (2018), Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr18.

[2] http://phatgiaobinhdinh.vn/giao-duc-phat-giao-muc-tieu-nhung-giai-phap-thuc-hien.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương (2008), Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06-8-2008 về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hội nghị lần thứ bày Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Hà Nội.

2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2017), Báo cáo về Cách mạng công nghiệp 4.0.

3. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (2017), Tổng luận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Hà Nội.

4. Edward Conze (2005), Lược sử Phật giáo, Nxb Tổng hợp TP HCM.

5. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (2019), Bài phát biểu Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos, Thụy Sĩ.

6. Thích Nữ Từ Thảo (2016), Lược sử Ni giới và hành trạng chư Ni Phật giáo Việt Nam, Nxb Văn hóa Văn nghệ TP HCM.

7. Lê Văn Thắng, Nguyễn Văn Tuân (2020), Trí thức Việt Nam với cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb. Chính trị Quốc gia.

8. Viện Trần Nhân Tông (2018), Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại, Nxb ĐHQG Hà Nội.

9. http://phatgiaobinhdinh.vn/giao-duc-phat-giao-muc-tieu-nhung-giai-phap-thuc-hien.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *