Phân tích những điểm giống và khác nhau giữa Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học và An Nam Phật học hội (giai đoạn 1920-1945) (SC. Thích Nữ Huệ Lộc)

Trong bối cảnh nước ta bị thực dân Pháp đô hộ và chịu chính sách văn hóa thống trị độc hại của chủ nghĩa thực dân, Phật giáo đứng trước những khó khăn nghiêm trọng: bị kiểm soát, kiềm hãm bởi chế độ thực dân, niềm tin Phật giáo của nhân dân bị suy giảm, nhiều tu sĩ thiếu trình độ cần thiết cũng như giới hạnh không nghiêm, hủ tục mê tín dị đoan lan tràn trong xã hội. Chính trong bối cảnh đó mà các bậc cao Tăng thạc đức và nhân sĩ trí thức đã khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo trên cả ba miền đất nước. Đầu tiên ở miền Nam qua sự kêu gọi của tổ Khánh Hòa, phong trào lan ra miền Trung và miền Bắc.

NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VÀ AN NAM PHẬT HỌC HỘI 

Về quá trình thành lập

Đối với Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học: Ngay từ năm 1920, Hòa thượng Khánh Hòa cùng các Hòa thượng Từ Phong, Như Nhãn, Huệ Quang, An Lạc, Long Triều lập Hội Lục hòa nhằm tạo điều kiện cho các Tăng sĩ gặp nhau trong những ngày kỵ giỗ để bàn về nội bộ Tăng đồ; đoàn kết lại và vận động phong trào chấn hưng Phật giáo, hằng năm cho ra đời Tạp chí Pháp Âm [4, tr.143]. Năm 1923, Hòa thượng khởi xướng thành lập tổ chức Lục Hòa Liên Hiệp nhằm tạo điều kiện cho các vị có tâm huyết với Phật pháp và lo lắng về sự suy đồi của Phật giáo Việt Nam có cơ hội gặp gỡ, bàn bạc việc chấn hưng. Tháng 12/1927 Hòa thượng Khánh Hòa đã xin phép chính quyền thuộc địa lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (NKNCPH) nhưng thất bại, vì lý do trong bản dự thảo điều lệ có mục “những người không Phật giáo cũng có thể trở thành thường trợ hội viên” [1, tr.73]. Đến ngày 06/4/1928, Hòa thượng lại đệ đơn lên Thống đốc Nam kỳ xin phép lần nữa sau khi đã sửa chữa lại một số nội dung điều lệ nhưng cũng không thành công, lý do lần này tồn tại hai điểm bất hợp lý là một số vị trong Ban Trị sự tạm thời mặc dù đã qua đời nhưng vẫn có chữ ký trong bản điều lệ, thứ hai là do thái độ chính trị của một số vị trong Ban Trị sự, cũng như trong số hội viên có người thân thế không được “trong sạch”. Cuối cùng Hòa thượng hợp tác với ông Trần Nguyên Chấn đang làm việc tại Sở Đốc lý Sài Gòn, rút kinh nghiệm sau hai lần thất bại, nên Hòa thượng thành lập “Ban bảo tồn Phật giáo ở Nam kỳ” trong đó Hòa thượng làm Trưởng ban, ông Chấn làm Phó ban, rồi lần lượt xin thành lập thư viện Phật học với tên gọi Pháp Bảo Phường, sau đó xin xuất bản Tạp chí Từ Bi Âm. Đến ngày 26/8/1931 Hội HNKNCPH được phép hoạt động theo Nghị định 2062 của Thống đốc Nam kỳ [1, tr.71-75].

Trong bối cảnh nước ta bị thực dân Pháp đô hộ và chịu chính sách văn hóa thống trị độc hại của chủ nghĩa thực dân, Phật giáo đứng trước những khó khăn nghiêm trọng: bị kiểm soát, kiềm hãm bởi chế độ thực dân. (Ảnh: internet)
Ngày 15/7/1938, Khâm sứ Graffeuil đã phê chuẩn Nghị định số 2159 về việc điều chỉnh tên Hội thành Hội Nghiên cứu và thực hành giáo lý Phật giáo tại An Nam, gọi tắt là Hội Phật học An Nam.
(Ảnh: vi.wikipedia.org)

Đối với An Nam Phật học hội: Đầu năm 1930 Hòa thượng Giác Tiên và cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (con của Binh Bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ Lê Đình Đỉnh – triều vua Tự Đức) đã vận động thành lập hội nghiên cứu Phật học tại Huế. Đầu năm 1932 ông Thám cùng một số anh em đệ đơn lên Chính phủ Nam Triều và Khâm sứ Trung Kỳ về việc xin thành lập Hội. Ngày 16/8/1932, vua Bảo Đại đã ban hành Chỉ dụ chấp thuận việc thành lập một tổ chức nghiên cứu Phật giáo tại kinh đô Huế. Đến ngày 17/9/1932, Khâm sứ Trung Kỳ cho phép tổ chức này đi vào hoạt động với tên gọi là “Hội Phật học” trụ sở ban đầu đặt tại chùa Trúc Lâm (Huế) [3, tr.53]. Ngày 30/6/1933 Hội được giấy phép xuất bản Tạp chí Viên Âm, số đầu tiên ra ngày 1/12/1933 [1, tr.76-77]. Nhưng phải đến ngày 10/8/1936, chính quyền thực dân Pháp mới chính thức công nhận tư cách pháp nhân của Hội thông qua Nghị định số 394-S, danh xưng An Nam Phật học hội (ANPHH) có từ đây, tuy nhiên rất ít phổ biến, thậm chí tờ Viên Âm cũng ghi “Viên Âm Nguyệt san của Hội Phật học Huế”. Đến ngày 15/7/1938, Khâm sứ Graffeuil đã phê chuẩn Nghị định số 2159 về việc điều chỉnh tên Hội thành Hội Nghiên cứu và thực hành giáo lý Phật giáo tại An Nam, gọi tắt là Hội Phật học An Nam (HPHAN) [3, tr.54] lấy chùa Từ Đàm làm trụ sở chính.

Qua tìm hiểu về quá trình thành lập hội của hai kỳ, thời gian thành lập hội ở hai kỳ dài ngắn khác nhau. Tại Nam kỳ phải mất tới 5 năm, từ lần đệ đơn thứ nhất vào năm 1927 đến lần hai vào năm 1928 và cuối cùng lần thứ ba năm 1931, với sự trợ giúp của cư sĩ, Hội mới được thành lập. Ở Trung kỳ việc lập hội có vẻ dễ dàng hơn, đầu năm 1932 đệ đơn đến tháng 8 cùng năm đã được chấp nhận, tuy nhiên để phổ quát thì phải đợi tới năm 1938 tên của Hội mới được phê chuẩn và phổ quát. Thứ nữa, tại Nam kỳ do quá trình thành lập hội khó khăn, trải qua các bước đệm như thành lập Ban Bảo tồn, thư viện, phòng đọc, rồi đến cho ra mắt các Tạp chí, sau cùng mới thành lập Hội NKNCPH. Ngược lại, tại miền Trung sau khi hoàn thành việc lập ội mới triển khai xin phép xuất bản Tạp chí, lập thư viện. Việc làm này cho thấy có một sự uyển chuyển trong phương thức hành đạo, không cứng nhắc, của các nhà sư thời bấy giờ.

Mục đích và hoạt động của hội

Đối với Hội NKNCPH: Hòa thượng Khánh Hòa – Hội trưởng đưa ra mục đích của Hội: Thờ phụng Phật, chấn chỉnh Tăng già, thành lập tổ chức duy nhất, đoàn kết hòa hợp; chung lo Phật sự; mở trường đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam; phiên dịch kinh điển ra chữ Quốc ngữ để truyền bá rộng rãi trong nước; mở rộng mối bang giao Phật giáo với các nước lân cận [4, tr.143].

Các hoạt động chủ yếu của Hội: Thành lập Phật học thư xã, gồm Pháp Bảo Phường (thư xã) và Duyệt kinh thất (phòng xuất bản kinh) Cổ tích viện (bảo tàng Phật giáo) Biên tập sở (trụ sở xuất bản tờ Từ Bi Âm và các loại kinh sách) Thính học đường (trường Phật học) [2, tr.99].

ANPHH ra đời với mục đích nghiên cứu và thực hành Phật giáo; tổ chức lễ Phật vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng cùng các buổi thuyết pháp của chư Tăng làm cho Phật tử hiểu giáo lý; trong Hội không được luận bàn về chính trị và công kích các tôn giáo đã có chỗ đứng trong bản xứ; thực hiện đúng tôn chỉ “Hoằng dương Phật pháp, lợi lạc hữu tình”.

Chương trình đào tạo Tăng tài của hai Hội, ngoài điểm chung là các cụ điều chú trọng đến yếu tố con người, nâng cao trình độ nội điển cũng như ngoại điển cho Tăng sĩ hầu phục vụ công tác phục hưng, còn có những điểm khác biệt giữa các hoạt động đó chính là thành phần đối tượng tham gia học.

ANPHH tổ chức các buổi thuyết pháp, các lớp giảng dạy kinh điển để mỗi hội viên nắm bắt được chân lý của đạo Phật; đào tạo những bậc thầy đủ tư cách hoằng truyền Phật pháp; lập những cảnh chùa theo đúng giới luật và quy tắc Đạo Phật; xây dựng thư viện làm nơi nghiên cứu cho hội viên; diễn dịch, ấn hành kinh sách Phật giáo, xuất bản báo chí hoằng dương Phật pháp; hộ trì và khuyến khích các bậc chân tu tổ chức các hoạt động Phật sự khác tuỳ theo lực lượng và tài chính của Hội [3, tr.55].

Hoạt động đào tạo Tăng tài

Năm 1933 Hòa thượng Khánh Hòa với Hòa thượng Huệ Quang, Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Pháp Hải lập “Liên đoàn học xã” tại chùa Viên Giác, quy định mỗi chùa hỗ trợ chi phí trong 3 tháng cho các buổi thuyết pháp và dạy học. Bắt đầu từ chùa Long Hòa (Vĩnh Long) tiếp theo chùa Thiên Phước (Trà Vinh) cuối cùng chùa Viên Giác (Bến Tre) nhưng hoạt động này sớm tan rã vì sự không đồng ý của ông Chấn. Sau thất bại này Hòa thượng Khánh Hòa lại vận động Tăng Ni Phật tử cùng chí hướng thành lập một tổ chức Phật học tại Trà Vinh, kết quả ngày 1/8/1934 Hội “Lưỡng xuyên Phật học” ra đời tại chùa Long Phước. Ngày 5/7/1935 cho xuất bản Tạp chí Duy Tâm. Hội này chú trọng việc đào tạo Tăng tài, trong điều lệ và quy tắc thành lập hội có nói đến vấn đề này “Điều 1 là chỉ thu nhận những học trò từ 15 đến 25 tuổi; những người xuất gia hay tại gia muốn vào trường học phải biết chữ Quốc ngữ, chữ Hán và phải thông hiểu một chút kinh, luật, luận. Phải làm đơn trình cho Ban Quản lý Giáo dục và kể đủ lai lịch của mình, tên cha mẹ, nghề nghiệp của cha mẹ và chỗ ở hiện tại. Các học tăng sẽ chịu khảo thí theo chương trình của Hội. Học tăng nào tư cách tầm thường, không thể học nổi thì sẽ bị Hội đồng bắt ra. Các học tăng được thu nhận mà không giữ đúng thanh quy cũng sẽ bị tẩn xuất. Hội sẽ cung cấp cho các Tăng Ni sinh tài liệu học tập, chịu học phí mỗi khóa là 5 năm, đến khi thi đậu ra trường phải ở lại giúp Hội 5 năm, sau đó Hội sẽ phân bổ đi hoằng pháp hoặc làm giáo viên các nơi khác…” [2, tr.131]. Chương trình tuyển sinh chia làm hai buổi, buổi sáng thí sinh sẽ đọc một bài kinh chữ Hán viết một bài ám tả, đọc một bài Hán văn; buổi chiều viết một bài ám tả bằng chữ Quốc ngữ, làm luận với chủ đề bổn phận của một người học sinh đối với Hội Lưỡng Xuyên Phật học và đối với Phật pháp, nhưng vì chỉ tiêu cao nên chỉ đậu 8 người, trước tình thế đó Ban Tổ chức phải nới lỏng điều kiện cho đủ số, kết quả cũng đủ 30 Tăng Ni chia ra trong độ tuổi 9-29. Đến năm 1936 Hội đã có Ban quản lý Phật học đường rõ ràng, chính Hòa thượng cũng đứng ra giảng dạy Tăng Ni, năm 1939 vì tuổi cao nên Hòa thượng lui về chùa Vĩnh Bửu để giảng dạy và mở trường Ni, rồi dời trường Ni ở Lưỡng Xuyên về đây.

Ở Trung kỳ năm 1929, Hòa thượng Giác Tiên đã vận động thành lập “Sơn môn Phật học đường”, tại chùa Trúc Lâm và mời sư Phước Huệ (Bình Định) ra làm chủ giảng, các vị Mật Khế, Mật Nguyện, Mật Thể, Mật Nguyện, và cư sĩ Lê Đình Thám đã theo học từ những ngày đầu. Năm 1930 Hòa thượng Giác Tiên khuyến khích giúp đỡ các Ni sư mở trường Ni tại chùa Từ Đàm Huế, năm 1932 hoạt động đào tạo Tăng tài của ANPHH dần đi vào quy củ. Năm 1933 Hòa thượng Giác Tiên cùng đệ tử Mật Khế mở tiếp lớp tiểu học tại chùa Vạn Phước. Năm 1934 Hòa thượng lại mở lớp thứ hai tại chùa Trúc Lâm. Ngày 16/10/1935 ANPHH cho thành lập và khai giảng Phật học viện Tây Thiên với 3 cấp học đó là tiểu học, trung học và đại học. Đến năm 1937 cấp trung học từ chùa Tường Vân dời về Tây Thiên, cấp đại học từ chùa Trúc Lâm dời về chùa Báo Quốc [3, tr.67-68]. Giảng viên ngoài các bậc trưởng lão Hòa thượng còn có cư sĩ dạy ngoại điển, mô hình đào tạo Tăng tài của Hội An Nam thu hút được các Tăng sĩ từ trong Nam ra, từ ngoài Bắc vào, học hỏi giáo lý và kinh nghiệm như Thiện Hòa, Thiện Hoa, Tố Liên…

Chương trình đào tạo Tăng tài của hai Hội ngoài điểm chung là các cụ đều chú trọng đến yếu tố con người, nâng cao trình độ nội điển cũng như ngoại điển cho Tăng sĩ hầu phục vụ công tác phục hưng, còn có những điểm khác biệt giữa các hoạt động đó chính là thành phần đối tượng tham gia học. NKNCPH chủ trương đào tạo những người trẻ tuổi từ 15 đến 25 (sau vì ít người nên cho phép từ 9 đến 29) và ít nhất cũng biết về kinh, luật, luận, ANPHH tại Huế đa phần cũng là những học viên trẻ tuổi, đây là hình thức “đưa tuổi trẻ vào đạo Phật” [5, tr.643] đây là một trong những thành công của phong trào phục hưng Phật giáo.

Về học phí, mỗi hội có những phương án khác nhau. Ở Nam kỳ, mỗi chùa sẽ tài trợ kinh phí trong vòng 3 tháng nhưng hình thức này không duy trì được lâu (bởi nhiều lý do). Tại Trung kỳ, hầu như không thấy đề cập đến học phí, có lẽ cũng do chùa tài trợ. Một khóa học được dời từ Báo Quốc về Tùng Lâm Kim Sơn cho hay “khóa học 1944 – 1945 là 60 người, trong đó 10 vị được HPHAN cấp học bổng còn lại là tự túc” [3, tr.70].

Các cơ sở giáo dục tại Huế hoạt động giáo dục phát triển mạnh hơn ở Nam kỳ, bằng chứng là nhiều cơ sở giáo dục ở Huế mọc lên nhanh và nhiều, chùa Vạn Phước, chùa Trúc Lâm, chùa Từ Đàm, chùa Tây Thiên, chùa Tường Vân, chùa Báo Quốc… đều là cơ sở phục vụ cho việc dạy học. Vai trò người cư sĩ trong ba hội cũng có sự khác biệt, Đối với ANPHH cư sĩ trực tiếp tham gia giảng dạy như ông Thám và một số nhân vật khác, còn ở Nam kỳ cư sĩ đóng vai trò “bảo trợ và tổ chức” [6, tr.141].

Có thể nói mô hình đào tạo Tăng tài của ANPHH ở Huế là mô hình chuẩn về hình thức cũng như nội dung, “riêng ở Huế, số Tăng Ni có trình độ cao về Phật học và Tây học khá đông…họ trở thành những thành viên đắc lực cho Hội Phật học An Nam” [6, tr.86] là nơi thu hút nhiều người đến học hỏi “Hội An Nam Phật Học là Hội đã tạo nên tiếng vang lớn nhất cho phong trào Chấn Hưng Phật Học.” [5, tr.637] Ngoài những điểm khác biệt trên, hai Hội vẫn có những điểm tương đồng nhất định.

ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VÀ AN NAM PHẬT HỌC HỘI

Cả hai Hội đều lập cho mình hội quán ở địa điểm thuận lợi, dễ hoạt động, làm trụ sở trung tâm, thành lập cơ quan ngôn luận ra tờ báo chủ lực của hội. Tại Nam kỳ thành lập Hội Nghiên cứu Phật học ở chùa Linh Sơn số 149 đường Douaumont, Sài Gòn, xuất bản Tạp chí Từ Bi Âm; tại miền Trung thành lập An Nam Phật học Hội tại chùa Trúc Lâm (Huế) cho ra mắt bạn đọc tờ báo Viên Âm.

Việc chấn hưng Phật giáo phải đầy đủ hai phương diện là hình thức và nội dung. Về nội dung, các Hội đều có định hướng đào tạo ra một đội ngũ tăng già đủ tài đủ đức, thông cả về nội điển (những giáo lý Phật giáo) lẫn ngoại điển (tức các môn học về xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa); Tăng sĩ phải thông suốt ngũ minh (y phương minh, nội minh, thanh minh, công xảo minh, nhân minh) [2, tr.79]; xứng đáng là Thiền gia Pháp chủ, dẫn dắt hàng tín đồ, mở các lớp giảng đạo lý, cho Phật tử, hướng tín đồ có niềm tin chánh tín với Phật pháp, nhất là bài trừ mê tín. Trên báo Đuốc Tuệ số 188-189 Ông Phụng khẳng định “mục đích của hội ta là chấn hưng Phật giáo, mà việc chấn hưng không gì bằng bài trừ những tập tục mê tín dị đoan, nó đã làm đổ nát nền Phật giáo nước ta” [6, tr.144]. Về hình thức là cho xây dựng các cơ sở tự viện, thư viện, giảng đường các ngôi chùa phục vụ công tác giảng dạy cho Tăng sĩ.

Có thể nói, phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đã để lại trong lòng hàng hậu bối chúng ta một sự thán phục về ý chí dũng mãnh, cũng như tầm nhìn chiến lược mang tính chính trị song hành cùng thời đại.

Trong hoạt động đào tạo Tăng tài trước khi có một lớp học và nội dung học chính thức các Hội đều có mở những trường nhỏ lẻ. Ở NKNCPH không mở được lớp học nên Hòa thượng Khánh Hòa phải lập Hội Phật học Lưỡng Xuyên để có những chương trình đào tạo Tăng sĩ, trước hội này có hội Liên đoàn học xã. Ở Huế, trước khi có chương trình đào tạo Tăng tài của ANPHH thì có Sơn môn Phật học đường. Mỗi Hội đều thiết kế các công trình phụ (tức cơ sở vật chất) đều có chỗ thờ Phật, tăng phòng, giảng đường, thư viện, nhà ăn, nhà in… tranh thiết bị cơ bản phục vụ chấn hưng. Hai Hội đều vận động tịnh tài để thỉnh Đại tạng kinh chữ Hán để nghiên cứu và phiên dịch Kinh sách ra chữ Quốc ngữ. Các Hội kêu gọi sự hưởng ứng, ủng hộ của mọi người và góp phần nâng cao trình độ dân trí. Mỗi hội Phật giáo ở hai miền đã biết khai thác công cụ của người Pháp là chữ Quốc ngữ để biến thành nguyên liệu chấn hưng Phật giáo, dùng chữ Quốc ngữ để viết báo.

Hội đề cao vai trò người cư sĩ. Hội được thành lập một phần nhờ vào các vị cư sĩ đang làm việc trong bộ máy chính quyền, nội ứng ngoại hợp, đưa đến thành công trong việc thành lập hiệp hội. Tại Nam kỳ Hòa thượng Khánh Hòa hợp tác với ông Trần Nguyên Chấn để lập hội. Tại Huế, Hòa thượng Giác Tiên phối hợp với Tâm Minh Lê Đình Thám. Mục đích chung của hai Hội là phục vụ công cuộc chấn hưng Phật giáo thành lập các hội Phật giáo để làm nền tảng cho công cuộc chấn hưng Phật giáo và vận động các hội Phật giáo cả nước để thống nhất Giáo hội Tăng già trong toàn quốc bằng cách thành lập Tổng hội Phật giáo [2, tr.80-84]. Sư ông Lai cũng đã nhận định “Tổ quốc ta dù ảm đạm vạn phần, suy yếu vạn phần theo chân nối gót, nấp bóng nương chân vạn phần cũng có được một phần tự phụ, tự hào, tự cao quý, tự treo một tấm gương sáng chói cho nhân loại soi chung được, ấy là cái tinh thần tôn giáo liên hiệp” [7, tr.25].

Có thể nói, phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đã để lại trong lòng hàng hậu bối chúng ta một sự thán phục về ý chí dũng mãnh, cũng như tầm nhìn chiến lược mang tính chính trị song hành cùng thời đại. Trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, các vị Hòa thượng đã vận dụng tất cả tài lực trí lực, phương thức để lập nên cơ sở hoạt động ở mỗi vùng miền, tạo chỗ dựa vững chắc để sinh hoạt hội đoàn lập dự án chấn hưng bắt đầu từ việc xây dựng các cơ sở vật chất như phòng đọc, chỗ thờ, thư viện giảng đường…cho đến các hoạt động đào tạo người tài, xuất hành nguyệt san. Tuy mỗi hội đoàn có những điểm khác biệt, nhưng chung quy đều phục vụ cho việc chấn hưng Phật giáo Việt Nam, xa hơn là thống nhất Phật giáo về một mối.

 

Tài liệu tham khảo:

* SC. Thích Nữ Huệ Lộc: Học viên cao học khóa III Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh HCM.

[1] Ninh Thị Sinh (2020), Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, Nxb ĐHQG Hà Nội.
[2] Nguyễn Quốc Tuấn, Thích Đồng Bổn (2018), Hòa thượng Khánh Hòa với phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, Nxb Hồng Đức.
[3] Dương Thanh Mừng (2017), Phong trào chấn hưng phật giáo miền Trung Việt Nam (1932-1951), Nxb Đà Nẵng.
[4] Thích Thiện Nhơn (2018), Những đóa hoa Phật giáo Việt Nam, Nxb Hồng Đức
[5] Nguyễn Lang (2012), Việt Nam Phật giáo Sử Luận, Nxb Phương Đông
[6] Nguyễn Đức Sự và Lê Tâm Đắc (2010), Mấy vấn đề về Phật giáo trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia.
[7] Nguyễn Đại Đồng và Nguyễn Thị Minh (2007), Phong trào chấn hưng Phật giáo, Nxb Tôn giáo.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *