Chùa Quảng Công hiện ở thôn Quảng Công, xã Yên Thái, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Trong sách Lịch sử Phật giáo Ninh Bình (Nxb Tôn giáo, xuất bản năm 2017) không hề nhắc đến ngôi chùa này. Qua các Văn bia, Tháp mộ, Khoa cúng Tổ hiện còn ở chùa Quảng Công cho thấy: đây là ngôi chùa lớn ở huyện Yên Mô giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Thiền phái Tào Động được truyền từ trung tâm Bích Động (Ninh Hải, Hoa Lư, Ninh Bình) đến chùa Quảng Công và từ chùa Quảng Công truyền đi nhiều ngôi chùa khác trong địa phương và các tỉnh lân cận. Sự phát triển của chùa Phúc Long giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX cũng nói lên sự ảnh hưởng của phái Tào Động trong Phật giáo Yên Mô là khá mạnh.
CHÙA QUẢNG CÔNG – MỘT TRUNG TÂM CỦA PHÁI TÀO ĐỘNG Ở YÊN MÔ, NINH BÌNH CUỐI THẾ KỶ XĨ ĐẦU THẾ KỶ XX
Chùa Quảng Công có tên khác là Phúc Long tự, vì nằm ở thôn Quảng Công nên được gọi theo tên thôn. Trong sách Lịch sử Phật giáo Ninh Bình (Nxb Tôn giáo, xuất bản năm 2017) không hề nhắc đến ngôi chùa này. Trong đợt điền dã tháng 4/2021, chúng tôi phát hiện ra hàng loạt tư liệu cho thấy chùa Phúc Long là ngôi chùa lớn, là một trung tâm của phái Tào Động ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Vùng đất xã Yên Thái hiện nay hình thành từ sớm. “Theo Ngọc phả “Ngọc Thỏ tiết chế đại vương” và “Áp lãng chân nhân” thì vùng đất này có dân cư sinh sống từ thời Hùng Vương thứ 17” [1]. Thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã cho xây thành ở thôn Quảng Công và cho quân lấy đá lấp sông để ngăn giặc tiến từ cửa Thần Phù vào, chuẩn bị chống giặc Minh. Trước năm 1832, Quảng Công là một xã thuộc tổng Yên Mô, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, đạo Thanh Bình, trấn Thanh Hoa ngoại [2]. Đầu thời Minh Mạng đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình. Năm 1832, đổi đạo Ninh Bình thành tỉnh Ninh Bình. “Thời Pháp thuộc đến năm 1945, xã Yên Thái có 13 làng, thôn, gồm: Cổ Lâm, Từ Đường, Quảng Công, Tri Điền, Lộc Động, Phù Sa, Yên Lâm, Nhân Phẩm, Hoa Tốt, Ngọc Lâm, Bình Sa, Yên Lâm, Thần Phù, Đồng Cao” [3]. Năm 1957, xã Yên Thái tách thành 2 xã: Yên Lâm và Yên Thái. Hiện nay, chùa Phúc Long thuộc thôn Quảng Công 1, xã Yên Thái, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Đến nay, chưa tìm đủ căn cứ để xác định thời điểm ra đời chùa Quảng Công. Theo các Bô lão cao niên ở địa phương, chùa được xây dựng từ rất lâu. Ban đầu là chùa nhỏ, bằng tranh, nứa, lợp mái rạ. Đến thời Nguyễn, chùa Quảng Công phát triển, trở thành một trung tâm Phật giáo của Yên Mô.
Chùa nằm ở vị trí đắc địa, “phía Nam có núi bao quanh, phía Đông có dòng sông dài, có đồng bằng nối tiếp đến phía Tây bắc. Phong cảnh đẹp như bức vẽ”. Theo quan niệm về phong thuỷ thì chùa nằm ở vị trí có bầy Rồng hội tụ, được thế “quần Long”. Trong khuôn viên của chùa vẫn còn 9 giếng mà nhân dân địa phương gọi là 9 mắt Rồng. Nước giếng lúc nào cũng trong, không bao giờ cạn. Chính vì điểm này nên người dân khu vực còn gọi chùa với tên là chùa Chín Giếng (hiện nay đã lấp 3 giếng).
Theo Văn bia “Quảng Công xã Phúc Long tự bi chí” dựng năm Bảo Đại nguyên niên (1925) thì chùa được xây dựng từ sớm. Văn bia không nói rõ chùa được xây dựng từ bao giờ nhưng căn cứ theo nội dung bia, lời người soạn bia là người xã Quảng Công, tên là Nguyễn Huy Sán, đỗ Cử nhân năm Quý Mão, làm đến chức Hàn lâm Kiểm tịch đã nói rõ về ấn tượng của mình về vị Trụ trì của chùa: “Lúc nhỏ đi theo các cụ già, gặp vị Sư đã 90 tuổi, đầu không có tóc, tiếng đọc Kinh vang như tiếng chuông”. Như vậy thì trước thời điểm lập bia (1925) chừng mấy chục năm, chùa Phúc Long đã có Trụ trì và hoạt động Phật sự đã đều khắp nên mới để lại ấn tượng sâu sắc đối với cậu bé như vậy. Điều này phù hợp với thư tịch lịch sử.
Kết hợp Văn bia và Khoa cúng Tổ đang lưu tại chùa Quảng Công thì người đầu tiên về mở cảnh chùa Phúc Long là Hòa thượng Thích Hòa Bình. Ngài xuất thân từ gia tộc họ Trần ở Đại An, Nam Định, thụ giới Tỳ kheo tại chùa Bích Động (Ninh Thắng, Hoa Lư, Ninh Bình). Bia tháp của Ngài ghi rõ đạo hiệu là Minh Giác Thiền sư, đạo duệ Thích Hòa Bình.
Bích Động là trung tâm của phái Tào Động ở Ninh Bình giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Lịch sử Phật giáo Ninh Bình cho biết, vị Tổ xiển dương phái Tào Động ở Bích Động là Thiền sư Thanh Đàm, Trụ trì chùa Bích Động từ năm 1810 (thế danh Nguyễn Đình Trị, sinh năm 1786, xuất gia năm 1804, thụ Tỳ kheo giới năm 1806. Ngài là một trong 9 đệ tử đắc pháp nơi Tổ thứ 6 phái Tào Động là Thiền sư Khoan Dực Phổ Chiếu – Đạo Nguyên Tăng thống tại Thiền viện Nguyệt Quang ở Hải Phòng). Như vậy, Thiền sư Minh Giác từ Bích Động về trùng tu chùa Quảng Công thời gian thế kỷ XIX, là người có công truyền bá Tào Động về chùa Quảng Công, Yên Mô.
Sau khi Thiền sư Thích Hoà Bình quy Tây thì đệ tử là Thích Thanh Quý kế đăng Trụ trì chùa Quảng Công. Kế đăng ngài Thanh Quý Trụ trì chùa Phúc Long là đệ tử cả: ngài Thanh Tháp. Giai đoạn Hoà thượng Thanh Tháp Trụ trì, chùa Quảng Công được trùng tu, xây mới nhiều hạng mục, Phật pháp được xiển dương mạnh mẽ.
Năm 1919, chùa được trùng tu. Dấu vết lần trùng tu này, trên thượng lương của gian Thượng điện của chùa hiện nay còn dòng chữ: “Hoàng triều Khải Định tứ niên tuế thứ Kỷ Mùi niên, bát nguyệt, sơ lục nhật lập trụ thượng lương đại cát”. Ngoài sửa chữa Thượng điện, Tiền đường, nhà Tổ, Trụ trì Thanh Tháp còn cho in kinh sách để người dân đến tụng niệm có sách dùng. Năm 1923, đệ tử của ngài Thanh Tháp là Thích Thanh Hỷ đã cúng dường tịnh tài trùng tu Phủ Mẫu. Phủ Mẫu được xây bằng tường gạch, cột đá rất đẹp.
Năm 1925, ngài Thanh Tháp lại trùng tu và sau đó cho lập bia ghi lại. Văn bia cũng cung cấp cho ta biết thông tin rằng: Chùa đã được rất nhiều người ở xã Quảng Công và nhân dân trong huyện Yên Mô, các chùa ở Yên Mô, Thanh Hóa, Nam Định tiến cúng. Đó là các chức sắc Chánh tổng, Lý trưởng, cựu Chánh tổng, cựu Lý trưởng, Phó Lý trưởng… của xã Quảng Công. Đặc biệt, có các Tăng, Ni của nhiều chùa ở huyện Yên Mô, ở tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Nam Định tiến cúng. Đó là: “Hòa thượng tự Thanh Nhu, ở chùa Hưng Phúc cúng 5 nguyên. Tỳ kheo tự Thanh Hỉ người bản thôn (Quảng Công), cúng 10 nguyên. Tỳ kheo tự Thanh Trà cùng các đệ tử: Tỳ kheo Tự Thanh Nhượng, tự Thanh Huỳnh, tự Thanh Hòa, tự Thanh Hướng, tự Thanh Định, Sa di tự Thanh Dưỡng ở chùa Đông Nhiễm, xã Doãn Kế, tỉnh Bắc Giang cúng 100 nguyên. Tỳ kheo Ni tự Tâm Lương ở chùa Tịnh Xá tại Nam Định. Tỳ kheo Ni tự Đàm Tịnh hiệu Minh Nguyệt, Tỳ kheo Ni tự Đàm An ở chùa Long Cảm tại Thanh Hóa. Tỳ kheo Ni tự Phúc Lộc, Tỳ kheo Ni tự Đàm Liên, Sa-di Ni tự Đàm Nhuận. Nguyễn Thị Lan ở chùa Nhân Vinh xã Nhân Phẩm, huyện Yên Mô. Tỳ kheo Ni tự Đàm Cảnh, chùa Khánh Vân ở Hải Lăng. Sư già Thanh Hóa ở Chùa Thiên Hưng”.
Như vậy, chứng tỏ chùa Quảng Công thời kì này là ngôi chùa lớn, thuộc phái Tào Động, Trụ trì Thanh Tháp là người có ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo không chỉ ở huyện Yên Mô mà cả khu vực các tỉnh của miền Bắc và tỉnh Thanh Hóa. Hoặc cũng có thể những Tăng, Ni về cúng tiến cho chùa Phúc Long vốn là đệ tử của chùa, được cử đi Trụ trì ở các nơi, khi chùa có việc thì quay về tiến cúng. Dù ở trường hợp nào thì đều chứng tỏ sự lớn mạnh, tầm ảnh hưởng của chùa Phúc Long đương thời.
Từ chùa Quảng Công, thiền phái Tào Động được truyền đến nhiều ngôi chùa ở huyện Yên Mô như: Chùa Thần Phù (còn gọi là chùa Ngọc Lâm, ở thôn Thần Phù, xã Yên Lâm), chùa Nhân Vinh (còn gọi là chùa Nhâm Phẩm, ở thôn Nhân Phẩm, xã Yên Lâm), chùa Quảng Hạ (tên chữ là Hào Khê tự, còn gọi là chùa Tè (vì nằm ở xóm Tè), ở làng Quảng Hạ, xã Yên Thắng),… Theo Tỳ kheo Ni Thích Đàm Thêm – Trụ trì đương thời thì chùa Quảng Công những năm đầu thế kỷ XX còn là trường hạ dành cho Ni bộ. Mỗi lần tổ chức hạ, các Ni về học tập tại chùa rất đông đúc.
Đồng thời, chùa Quảng Công còn là nơi mà nhân dân Yên Mô gửi gắm niềm tin tâm linh của mình. Họ không chỉ đến chùa tụng kinh, niệm Phật, hướng về cái thiện, việc thiện mà chùa còn là nơi họ tin tưởng, gửi gắm việc cúng giỗ sau khi qua đời. Theo Văn bia năm Bảo Đại nguyên niên đã nêu, vào tháng 4 năm này, Trụ trì của chùa Quảng Công là ngài Thanh Tháp đã cho khắc bia, để ghi nhớ lại những người cúng ruộng, gửi giỗ tại chùa. Số lượng trên bia có tới 13 người cúng ruộng, gửi giỗ. Số lượng ruộng cúng được khắc trên kia khá lớn, có người cúng tới 14 thước. Tất cả chứng tỏ chùa Quảng Công thời kì này khá lớn, là trung tâm Phật giáo khu vực, được nhân dân trong vùng tin tưởng, gửi gắm tâm linh của mình.
HÀNH TRẠNG MỘT SỐ TRỤ TRÌ CỦA CHÙA QUẢNG CÔNG QUA VĂN BIA
Kết hợp Văn bia, Tháp mộ và Khoa cúng Tổ ở chùa Quảng Công thì Lịch đại Tổ sư tại chùa đến nay như sau:
– Tổ đệ nhất: Hoà thượng Thích Hoà Bình Thiện Lợi, đạo hiệu là Minh Giác Thiền sư.
– Tổ đệ nhị: Hoà thượng Thích Thanh Quý.
– Tổ đệ tam: Hoà thượng Thích Thanh Tháp.
– Tổ đệ tứ: Tỳ kheo Ni Phúc Lộc.
– Tổ đệ ngũ: Tỳ kheo Ni Thích Đàm Nhâm.
– Tổ đệ lục: Tỳ kheo Ni Thích Đàm Thược.
– Tổ đệ thất: Tỳ kheo Ni Thích Đàm Chỉnh.
– Tổ đệ bát: Hoà thượng Thích Thanh Minh.
– Đương thời Trụ trì: Tỳ kheo Ni Thích Đàm Thêm.
Tiểu sử một số Trụ trì chùa Phúc Long như sau:
Hoà thượng Thích Hoà Bình
Sau khi về Trụ trì chùa Phúc Long đã hết lòng xiển dương Phật pháp, tu sửa chùa. Ngài mất ngày 12 tháng Giêng. Tháp mộ của Ngài hiện ở vườn chùa, được đệ tử là Thanh Tháp xây vào tháng 12 năm Khải Định thứ nhất (1919). Bia tháp ghi:
Phiên âm:
Cái văn! Phật Tổ đạo cao, huân lao nghĩa trọng. Cẩu bất trí ý, hạt đắc vĩnh truyền? Tư giả, Thích tử mưu chư kì dịch trùng tu Bảo tháp dĩ biểu phương danh.
Quyến Thiền sư:
Nghĩa Hưng thác tích.
Ký thức? Đại An
Trần gia tộc phổ
Đông Lĩnh bản thôn
Danh tự hữu ý
Chí mộ thiền môn
Xuất gia đầu Phật
Tào Động chính tông
Quy y Bích Động
Giới phẩm đăng đàn
Tam căn cụ túc
Lục độ chu hoàn
Ninh Bình cương tỉnh
An trụ Quảng Công
Hằng tâm, hằng sản
Tu lý Phúc Long
Nhất tân chế độ
Tượng pháp hưng tông
Trang nghiêm nội, ngoại
Phỉ trấn thiền tông
Giả danh bất hủ
Truy tư vô cùng.
Nam Mô Tịnh Nghiệp tháp; Thanh Quang Tỳ kheo tháp phổ đạo duệ hiệu Minh Giác Thiền sư, Thích Hòa Bình Thiện Lợi hóa thân Bồ tát – Thiền tọa hạ.
Chính nguyệt nhị thập nhật kỵ.
Khải Định nguyên niên, tuế Bính Thìn, Lạp nguyệt, sơ Tứ nhật; tự Thanh Tháp cẩn chí”.
Dịch nghĩa:
Từng nghe! Đạo của Phật Tổ cao vời, rực rỡ huân lao nghĩa nặng. Nếu không hết lòng mộ há truyền được mãi sau. Nay nhân vì thế mà Thích tử [4] bàn bạc với các kỳ dịch của làng trùng tu Bảo tháp để nêu tiếng thơm của Tổ.
Đoái nghĩ Thiền sư:
Thác tích ở phủ Nghĩa Hưng
Gửi thành huyện Đại An
Dòng Trần phả thuộc
Đông Lĩnh thôn nhà
Tên, tự mang ý
Chí mến cửa thiền
Xuất gia tu Phật
Chính dòng Tào Động
Quy y Bích Động
Giới phẩm đăng đàn
Tam căn cụ túc
Lục độ đủ toàn
Tại cõi Ninh Bình
An trụ Quảng Công
Dành tâm, dành của
Tu sửa Phúc Long
Nên quy mô mới
Tượng pháp hưng dòng
Trang nghiêm nội, ngoại
Thêm chấn thiền tông
Danh đó còn mãi
Tưởng nhớ vô cùng!
Nam vô Tịnh Nghiệp tháp – Thanh Quang Tỳ kheo; Pháp phả đạo duệ hiệu Minh Giác Thiền sư – Thích Hòa Bình Thiện Lợi hóa thân [5] Bồ tát – Thiền tọa hạ.
Giỗ ngày 20 tháng Giêng. Ngày mồng 4 tháng Chạp năm Bính Thìn, niên hiệu Khải Định thứ nhất (1916). Đệ tử là Thanh Tháp kính ghi.
Thiền sư Thích Thanh Quý
Ngài là đệ tử của Thiền sư Thích Hoà Bình, xuất thân từ gia tộc họ Vũ, ở huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Khi còn nhỏ, Ngài đã chuyên cần việc học, hiểu cả Nho, Phật, Đạo. Đến tuổi thanh niên, Ngài xuất gia. Sau khi Sư phụ là Thích Hoà Bình Thiện Lợi qua đời, Ngài Trụ trì chùa Phúc Long, đã hết lòng lo việc Phật pháp, mở mang chùa cảnh. Ngài mất ngày 10/8. Tháp mộ Ngài hiện ở vườn chùa Phúc Long là do hai đệ tử là Thanh Tháp và Thanh Trà xây vào tháng 12 năm Khải Định thứ nhất (1919). Bia tháp ghi:
Phiên âm:
“Cái văn! Phật Tổ đạo cao, Sư sinh tình trọng. Cẩu bất lưu ý an năng vĩnh truyền? Nhưng Thích tử đẳng, hiệp đồng bản xã kiến lập Bảo tháp, dụng biểu phương danh.
Minh viết!
Kiến Xương thác tích
Quận thuộc Vũ Tiên
Lịch Bài thị ấp
Vũ tộc sinh hiền
Thiếu cần học vấn
Trưởng mộ thanh liên
Sơ đầu Thông Khiết
Chính đại tông truyền
Tái sam Từ Hòa
Giới bẩm kiến thiên
Nhất phan miễn giáo
Tam tụ chu viên
Hoàng kim thúc hậu
Minh giám hiệu nguyền
Mộc nghệ thị luật
Tịnh nghiệp khắc cần
Phật pháp đương cơ
Vị tùng lâm lữ
Thanh Hóa duyên hoằng
Kỳ Đà phúc quả
Tượng hoàn kim dung
Bảo đài liên tọa
Ninh Bình nhất phản
Diên cảnh Phúc Long
Thạch Cầu thời vãng
Nghiệp Sư tôn sung
Thử tâm, thử cảnh
Du tễ du ninh
Mã giang ẩn nguyệt
Phượng lĩnh truyền thanh
Tam thập như niên.
Hốt nhiên ảo mộng
Đức hậu di thâm
Ân tình đặc trọng
Bách thế lưu phương
Dữ sơn xuyên cộng.
Bát nguyệt, sơ Thập nhật chính kị.
Nam mô Khai Sơn tháp – Tịnh Nghiệp Sa môn; pháp hiệu Thanh Quý Tỳ kheo – Bồ tát thiền tọa hạ. Khải Định nguyên niên, tuế Bính Thìn Lạp nguyệt sơ Tứ nhật
Pháp tử Thanh Tháp, Thanh Trà đẳng chí đẳng cẩn chí.
Dịch nghĩa:
Từng nghe! Đạo của Phật Tổ cao vời, ơn Thầy tình nặng. Nếu không để lòng mộ thời sao truyền mãi. Vì thế, chúng Thích tử hiệp lực cùng bản xã tạo lập Bảo tháp để nêu tiếng thơm của Tổ.
[Vậy có] minh rằng!
Thác tích ở phủ Kiến Xương
thuộc Quận tên Vũ Tiên [6]
Quê vốn ấp Lịch Bài
Họ Vũ sinh con hiền
Lúc nhỏ chăm học vấn
Khi lớn mộ thanh liên [7]
Đầu theo sư Thanh Khiết
Chính dòng truyền đại tông
Lại sam sư Từ Hóa
Giới bẩm nghiêm minh
Một phen gắng dạy
Ba lần được chu viên
Tiếng lành truyền lưu
Minh giám được ước nguyền
Từng bước theo luật
Tịnh nghiệp ắt cần
Phật pháp đương chuyển
Làm bạn chốn tùng lâm
Duyên hoằng nơi Thanh Hóa
Kỳ Đà [8] phúc quả sánh
Tượng Phật sáng kim dung
Tòa sen cùng đài báu
Ninh Bình một trở lại
Làm dài mạch Phúc Long
Lúc đến Thạch Cầu
Nghiệp Sư đạo tông
Tâm đó, cảnh này
Thêm bền thêm ổn
Trăng ẩn sông Mã
Non phượng tiếng lưu
Trong 30 năm
Hốt nhiên ảo mộng
Đức dày càng sâu
Ân tình đặc trọng
Muôn đời lưu danh
Sánh cùng sông núi
Giỗ ngày 10 tháng Tám.
Nam mô Khai Sơn tháp – Tịnh Nghiệp Sa môn; pháp hiệu Thanh Quý, Tỳ kheo Bồ tát – Thiền tọa hạ. Ngày mùng 4 tháng Chạp năm Bính Thìn, niên hiệu Khải Định thứ nhất (1916). Chúng pháp tử là Thanh Tháp, Thanh Trà cùng kính chép.
Hoà thượng Thích Thanh Tháp
Ngài Thanh Tháp sinh ra trong gia tộc họ Nguyễn, ở xã Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Khi còn nhỏ, Ngài đã tôn sùng Phật và sớm xuất gia cầu đạo. Sau khi Sư phụ là Thích Thanh Quý qua đời, Ngài kế đăng Trụ trì chùa Phúc Long. Trong thời gian Trụ trì chùa Phúc Long, Hoà thượng Thích Thanh Tháp đã hết lòng xiển dương Phật pháp, mở mang chùa cảnh, trùng tu chùa vào các năm Bảo Đại nguyên niên (1925), trùng tu chánh điện, in kinh sách, làm mới nhà Tổ vào năm Khải Định thứ tư (1919), trùng tu Phủ Mẫu vào năm Khải Định thứ tám (1923). Ngài mất ngày 29/12. Tháp mộ Ngài hiện ở vườn tháp được xây vào tháng Giêng năm Canh Tý. Văn bia tháp của Ngài Thanh Tháp như sau:
Phiên âm:
Cái văn! Phật Tổ đạo cao, Sư sinh tình trọng. Nhược bất lưu ý an đắc truy tư Kim thích tử thỉnh thị bản thôn kiến lập Bảo tháp dụng biểu phương danh.
Minh viết:
Nam Định thác tích
Hải Hậu huyện đường
Chính xã Phương Trung
Bản sinh Nguyễn tộc.
Thiếu niên cần học
Trưởng mộ Thiền môn
Sơ bộ Lạc Quần
Phúc Linh thụ giới
Viên Đào sáng tác
Phúc Trụ trì công
Quả lược để phương
Danh lưu hậu học
Truyền đạo thọ lục thập tứ niên
Niệm xả trần ai
Hốt nhiên ảo mộng
Công đức di thâm ân tình trọng
Bách thế lưu phương
Dữ sơn xuyên cộng
Đệ niên thập nhị nguyệt, Nhị thập cửu nhật kị.
Nam mô Phương Quảng tháp – Tịnh Nghiệp Sa môn Tỳ kheo – tự Thanh Tháp toạ hạ. Tuế thứ Canh Tý niên, Chính nguyệt, Thập cửu nhật lập chí.
Dịch nghĩa:
Từng nghe! Đạo của Phật Tổ cao vời, ơn Thầy tình nặng. Nếu không để lòng mộ thời sao nhớ truyền mãi. Nay Thích tử thỉnh thị với bản thôn tạo lập Bảo tháp để nêu tiếng thơm của Tổ.
[Vậy có] minh rằng!
Thác tích ở Nam Định
Hải Hậu huyện nhà
Chính xã Phương Trung
Vốn dòng họ Nguyễn
Lúc nhỏ chăm học
Khi lớn mộ Thiền
Lúc đầu Lạc Quần
Thụ giới Phúc Linh
Sáng tác Viên Đào
Giữ công tạo Phúc
Quả đạt lưu thơm
Danh lưu người sau
Truyền đạo thọ 64 năm
Nghĩ bỏ trần ai
Hốt nhiên mộng ảo
Công đức càng sâu
Ân tình thêm nặng
Trăm đời đê thơm
Cùng với non nước
Giỗ ngày 29 tháng 12
Nam mô Phương Quảng tháp – Tịnh Nghiệp Sa môn; Tỳ kheo tự Thanh Tháp tọa hạ.
Tỳ kheo Ni – tự Phúc Lộc
Tỳ kheo Ni – tự Phúc Lộc là đệ tử của Thiền sư Thích Thanh Tháp, xuất thân từ họ Nguyễn, xã Đông Thành, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Khi còn nhỏ Ni đã hâm mộ chốn thiền môn. Ni xuất gia cầu đạo tại chùa Lạc Quần (Nam Định), thụ giới Tỳ kheo Ni tại chùa Phúc Linh vào năm 27 tuổi. Sau khi sư phụ là Thanh Tháp quy Tây, Ni Trụ trì chùa Phúc Long. Sau 78 năm trụ thế, Ni quy Tây vào ngày 17/10. Văn bia, Tháp mộ Ni Phúc Lộc như sau:
Phiên âm:
Cái văn! Phật Tổ đạo cao, Sư sinh tình trọng. Nhược bất lưu ý an đắc truy tư Kim thích tử thỉnh thị bản thôn kiến lập Bảo tháp dụng biểu phương danh.
Minh viết:
Thái Bình thác tích
Tiền Hải huyện đường
Đông Thành xã [động?]
Sơ sinh Nguyễn tộc.
Nữ lưu cần học
Trưởng mộ Thiền môn
Sơ bộ Lạc Quần
Phúc Linh thụ giới
Nhị thập thất tuế
Bồ tát thụ trì
Sáng tạo nhân cơ
Tiên linh thụ thứ
Phúc Long lão trụ
Thất thập bát linh
Kiến tháp di truyền
[…] vĩnh truyền một
Hữu sinh hữu thác
Công đức lưu phương
Dữ sơn xuyên cộng
Thập nguyệt, Thập thất nhật chính kỵ
Nam mô Thành Quảng tháp – Tịnh Nghiệp Sa môn Tỳ kheo Ni – tự Phúc Lộc Bồ tát thiền tọa hạ.
Tuế thứ Canh Tý niên, Chính nguyệt – Thập cửu nhật lập chí.
Dịch nghĩa:
Từng nghe! Đạo của Phật Tổ cao vời, ơn Thầy tình nặng. Nếu không để lòng mộ thời sao nhớ truyền mãi. Nay Thích tử thỉnh thị với bản thôn tạo lập Bảo tháp để nêu tiếng thơm của Tổ.
[Vậy có] Minh rằng!
Thác tích Thái Bình
Tiền Hải huyện nhà
Chính xã Đông Thành
Vốn dòng họ Nguyễn
Nữ giới chăm học
Khi lớn mộ Thiền
Lúc đầu Lạc Quần
Thụ giới Phúc Linh
Khi hăm bảy tuổi
Trì hạnh Bồ tát
Sáng tạo nền nhân
Tiên linh nhận phúc
Trụ tại Phúc long
Đến 78 tuổi
Dựng tháp di truyền
Còn mãi ..
Có sinh có thác
Công đức lưu thơm
Sáng cùng sông núi
Ngày 17 tháng Mười chính kỵ
Nam mô Thành Quảng tháp – Tịnh Nghiệp Sa môn; Tỳ kheo Ni tự Phúc Lộc Bồ tát – Thiền tọa hạ.
Ngày 19 tháng Giêng năm Canh Tý, kính ghi (1960)”.
Như vậy, qua các Văn bia, Tháp mộ, Khoa cúng Tổ hiện còn ở chùa Quảng Công cho thấy, đây là ngôi chùa lớn ở huyện Yên Mô giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Thiền phái Tào Động truyền từ trung tâm Bích Động (Ninh Hải, Hoa Lư, Ninh Bình) đến chùa Quảng Công và từ chùa Quảng Công truyền đi nhiều chùa khác trong địa phương, thậm chí các tỉnh lân cận. Sự phát triển của chùa Quảng Công giai đoạn thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cũng nói lên sự ảnh hưởng của phái Tào Động trong Phật giáo Yên Mô là khá mạnh.
TS. Ðinh Văn Viễn
Chú thích:
* Tiến sĩ Đinh Văn Viễn – Đại học Hoa Lư, Ninh Bình.
[1] Đảng bộ xã Yên Thái (2012), Lịch sử Đảng bộ xã Yên Thái (1947-2010), tr.9.
[2] Dương Thị The (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX (các tỉnh từ Nghệ tĩnh trở ra), Nxb. Khoa học xã hội, tr.119.
[3] Đảng bộ xã Yên Thái (2012), Sđd, tr.7.
[4] Thích tử: Con của phật, đây chỉ chung các đệ tử tín đồ Phật giáo.
[5] Thiện lợi hóa thân: Lâu nay về chùa được nghe giải thích chữ “Thiện Lợi” là pháp danh của Thiền sư nhưng đây là thuật ngữ của Phật giáo nói chung ý chỉ việc người tu hành nhận ra thiện căn – tính Phật của bản thân; bản thân là biến thân của Phật, Bồ tát giáo hóa, cứu tế chúng sinh.
[6] Quận Vũ Tiên (郡武仙); Từ trước nước ta không đặt quận làm đơn vị hành chính, chỉ có huyện và Phủ. Vũ Tiên là huyện trực lệ của phủ Kiến Xương, sau này hợp với huyện Thư Trì thành huyện Vũ Thư.
[7] Thanh Liên (清蓮): Loài sen sạch ở bùn mà không nhiễm bẩn, ý nói Đạo Phật. Cùng cõi Sa Bà không nhiễm khổ.
[8] Kỳ Đà (奇佗) là vị Thái tử, con vua Ba-tư-nặc ở thành Xá Vệ. Ông có cảnh vườn rất đẹp ở thành Xá Vệ, kinh đô nước Câu Thát La. Trưởng giả Cấp cô Độc đã mua vườn ấy của Thái tử và đem cúng dường Phật và Tăng chúng để làm Tịnh xá (tức là chùa). Nhưng Thái tử chỉ bán đất không bán cây trong vườn, Thái tử cúng dường Phật và Tăng chúng. Vì vậy, mà trong Kinh Phật thường có câu “Kỳ thụ, Cấp Cô Độc viên” (vườn ông Cấp Cô Độc, cây của Thái tử Kỳ Đà). Ở đây, hiểu là công đức của Sư sánh với công đức của Kỳ Đà Thái tử khi cúng dường, tôn tạo cảnh Phật.
Tài liệu tham khảo:
1. Khoa cúng Tổ chùa Quảng Công.
2. Thượng tọa Thích Thọ Lạc, Nguyễn Hồng Dương, Nguyễn Phú Lợi (2017), Lịch sử Phật giáo Ninh Bình, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
3. Văn bia, Tháp mộ tại chùa Quảng Công (5 bia tháp).
4. Văn bia Bảo Đại nguyên niên (tại chùa Quảng Công).
5. Văn bia Quảng Công xã Phúc Long tự bi chí (niên đại 1925) (tại chùa Phúc Long).