
HỘI LỤC HOÀ LIÊN HIỆP
Từ ngày thực dân Pháp đô hộ năm 1862 đến đầu thế kỷ XX, trong thời gian hơn 50 năm, Phật giáo Nam Bộ dần bị lu mờ, hoại diệt. Chùa chiền bị phá hủy hoặc sử dụng làm mục đích khác, chư Tăng phần lớn theo các phong trào chống Pháp cứu nước. Một số ít còn lại thì bị thất học trầm trọng, các tự viện chỉ còn lại một số quý Hòa thượng lớn tuổi lo hương khói bảo vệ chùa chiền, bám tự bám làng để tồn tại, đặc biệt là chỉ lo cúng bái nghi lễ bảo tồn đạo pháp để chờ ngày phục hưng. Nhất là trong các ngày cúng Tổ, quý Hòa thượng có tâm huyết, có ưu tư trước sự suy tàn, hoại diệt của Phật giáo, nên đã có ý niệm thành lập một tổ chức phục hưng Phật giáo Nam Bộ. Từ quyết định trên, năm 1920, tại trường hạ chùa Giác Lâm Gia Định, tổ Từ Văn đã khởi xướng thành lập Hội Lục Hòa liên xã, văn phòng đặt tại chùa Hội Khánh (tỉnh Bình Dương). Còn ở vùng Tây Nam Bộ, ngày 19/9/1923, nhân giỗ Tổ chùa Long Hòa Tiểu Cần Trà Vinh, Hòa thượng Khánh Hòa đã mời chư Sơn Thiền Đức miền Tây về dự lễ giỗ Tổ. Trong lễ này, có quý Hòa thượng tham dự như: Hòa thượng Huệ Quang, Hòa thượng Thiện Chiếu, Hòa thượng Từ Phong, Hòa thượng Vạn An, Hòa thượng Phi Lai, Hòa thượng Pháp Hải, Hòa thượng An Lạc… Hòa thượng Khánh Hòa đã đề xuất thành lập Hội Lục Hòa Liên Hiệp. Quý Hòa thượng đã đồng tình ủng hộ, văn phòng Hội đặt tại chùa Giác Hải – Chợ Lớn để dễ liên hệ.

Sau phiên họp, quý Hòa thượng đã phân công mỗi người một việc và bắt đầu hoạt động. Năm 1926, Hòa thượng Thiện Chiếu ra Bắc vận động và thu thập tài liệu từ Phật giáo Trung Quốc như bộ Hải Triều Âm. Năm 1927, Hòa thượng Khánh Hòa, Hòa thượng Huệ Quang đi vận động tại các tỉnh miền Trung, giảng dạy chư Tăng nội trú trường hạ chùa Long Khánh – Bình Định, Hòa thượng Từ Phong cho in ấn kinh sách để truyền bá cho Hội.
Còn Hòa thượng Phi Lai với tư cách là thành viên của hội, đã động viên đệ tử là bà Hai Ngó, pháp danh là Hồng Nga, hiệu Diệu Ngọc chủ chùa Giác Hoa – Bạc Liêu. Năm 1927, thành lập trường Phật học và mở khóa An cư Kiết hạ đầu tiên tại Nam Bộ cho chư Ni theo học. Ban Giảng huấn và Ban Chứng minh có Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Phi Lai, Hòa thượng Từ Phong, Hòa thượng Vạn An, Hòa thượng Pháp Hải giảng dạy. Cũng nhân mùa Hạ này, quý Hòa thượng đã khai mở giới đàn để truyền trao giới pháp cho chư Ni có đủ giới pháp để tu học – hành đạo và thành lập Ni bộ đầu tiên tại Nam Bộ do Ni sư Hồng Nga, Diệu Ngọc lãnh đạo. Chư Ni tham gia khóa học này về sau trở thành những nhà lãnh đạo Ni bộ Nam phần Việt Nam.
Để tiếp tục chương trình tu học cho Tăng Ni ở Nam Bộ, năm 1928, Hoà thượng Phi Lai đã khai giảng lớp Phật học Gia giáo và mở khoá An cư Kiết hạ tại chùa Phi Lai, chư Tôn thiền đức đã quy tụ về đây ủng hộ Hoà thượng chung lo Phật sự nỗ lực giảng dạy cho chư Tăng trong suốt mùa hạ 3 năm liền. Ban Giảng huấn gồm: Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Khánh Hòa, Hòa thượng Pháp Hải, Hòa thượng Từ Phong, Hòa thượng Vạn An, Hòa thượng Phổ Tuệ, Hòa thượng Vạn Ân, Hòa thượng Vạn Pháp, Hòa thượng Chơn Niệm…
Từ nền tảng này, Hòa thượng Phi Lai đã gieo trồng nhân duyên và hoá độ cho những Tăng sĩ hữu duyên trở thành pháp khí Đại thừa sau này như: Hòa thượng Thiện Minh, Hòa thượng Thiện Trung, Hòa thượng Thiện Đạo, Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Thiện Tâm, Hòa thượng Thiện Tòng, Hòa thượng Thiện Quang, Hòa thượng Thiện Tường, Hòa thượng Thiện Ngôn, Hòa thượng Thiện Tín, Hòa thượng Thiện Từ, Hòa thượng Pháp Linh (HT. Phổ Quảng), Hòa thượng Huệ Tịnh Pháp Thân, Hòa thượng Từ Hội, Hòa thượng Từ Nhơn, Hòa thượng Trí Đức… đã đóng góp cho sự phát triển của Phật giáo Nam Bộ giai đoạn 1930 – 1950.
Hòa thượng Khánh Hòa đã vận động quý Hòa thượng Huệ Quang, Hòa thượng Từ Phong, Hòa thượng Niệm Nhẫn, cư sĩ Ngô Văn Chương, Trần Nguyên Chấn có uy tín đối với chính chuyền Pháp thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học thay cho Hội Phật học Thư xã. Nhờ uy tín của cư sĩ Trần Nguyên Trấn đang tùng sự tại Dinh Đốc Lý Sài Gòn, cuối cùng ngày 26/8/1931, Thống đốc Nam kỳ Jean-Félix Krautheimer ra Quyết định số 2062 thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học và Tạp chí Từ Bi Âm, Văn phòng đặt tại chùa Linh Sơn – Sài Gòn.
Ban lãnh đạo đầu tiên gồm có:
Hội trưởng: Hòa thượng Khánh Hòa
Phó Hội Trưởng: Hòa thượng Trí Thiền
Phó Hội Trưởng: Cư sĩ Trần Nguyên Chấn
Cố vấn: Hòa thượng Huệ Quang
Cố vấn: Hòa thượng Từ Phong
Thủ bổn: Ông Nguyễn Văn Nhơn
Phó Thủ bổ: Cư sĩ Nguyễn Ngọc Vinh
Chánh Từ hàng: Ông Nguyễn Văn Phổ
Phó Từ hàng (Phó Thư ký): Sa môn Thiện Dư
Đáp ứng lời kêu gọi tham gia và ủng hộ Hội, Hòa thượng Phi Lai Chí Thiền đã tham gia và giữ chức Uỷ viên Bảo trợ Thường trực. Hòa thượng còn ủng hộ 300 đồng tiền Đông Dương cho Hội hoạt động và công việc này vẫn tiếp tục đến khi Ngài viên tịch năm 1933.
Trong công tác giáo dục, ngoài công việc chứng minh cho trường Phật học Gia giáo chùa Giác Hòa – Bạc Liêu, chùa Phi Lai – Châu Đốc, Hòa thượng còn chứng minh cho trường Phật học Gia giáo Sông Tra tại chùa Linh Nguyên, Đức Hòa Thượng, Tỉnh Tân An do Hòa thượng Như Nhãn Từ Phong làm chủ giảng, góp phần trong phong trào xóa nạn thất học cho chư Tăng và đào tạo ra những vị Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam sau này như: Hòa thượng Minh Cảnh, Hòa thượng Phổ Chiếu, Hòa thượng Thiện Thành, Hòa thượng Thiện Phước, Hòa thượng Huệ Chí…
XÂY DỰNG TĂNG ĐOÀN
Về công đức xây dựng Tăng đoàn, hình thành ngôi Tam bảo tại thế gian, qua những Đại Giới đàn tại chùa Giác Hoa (Bạc Liêu) năm 1927, tại Tổ đình Phi Lai năm 1928, tại chùa Trùng Khánh Phan Rang năm 1929, tại chùa Tam bảo Hà Tiên năm 1932 và nhiều Đại Giới đàn khác, Hoà thượng Phi Lai với tư cách là Đàn đầu Hòa thượng, Chánh Chủ Đàn hay Chứng minh Giới đàn đã truyền trao giới pháp cho hàng trăm Tăng Ni trở thành Tăng bảo, là ngôi báu của Tam bảo hiện diện qua cõi đời, hoằng dương chánh pháp lợi lạc quần sanh trong phong trào Chấn hưng Phật giáo miền Nam giai đoạn 1930 – 1950. Qua đó, ngôi Tam bảo tồn tại ở thế gian, Phật pháp được phát triển lâu dài do công đức Tổ sư Phi Lai Chí Thiền dày công xây dựng.
Qua đó, có thể nói, Tổ đình Phi Lai là cái nôi của phong trào Chấn hưng Phật giáo Miền Nam trong giai đoạn đầu, là nơi quý Hòa thượng đã tập họp sinh hoạt, bàn bạc các chương trình Phật sự chung và riêng của từng địa phương mà mình trú xứ. Trong đó, Hòa thượng Phi Lai phụ trách vùng Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên. Hòa thượng Khánh Hòa vùng Bến Tre, Trà Vinh. Hòa thượng Khánh Anh phụ trách vùng Vĩnh Long, Cần Thơ. Hòa thượng Vạn An phụ trách vùng Sa Đéc. Hòa thượng Từ Phong, Hòa thượng An Lạc phụ trách vùng Chợ Lớn, Mỹ Tho. Hòa thượng Vạn Ân, Hòa thượng Vạn Pháp phụ trách vùng Phú Yên. Hòa thượng Phổ Tuệ phụ trách vùng Bình Định. Hòa thượng Chơn Niệm phụ trách vùng Phan Rang-Tháp Chàm. Qua đó, tạo thành vùng hoạt động Phật sự kết nối với nhau cùng hoạt động đóng góp phát triển Phật pháp Nam Trung Bộ để từ đó làm tiền đề thành lập các hội Phật học, như: Hội Phật học Lưỡng Xuyên 1934, Hội Phật học Kiêm Tế năm 1937…
Trong thời gian hợp tác với Hòa thượng Phi Lai, chung lo Phật sự tại chùa Phi Lai – Châu Đốc, Hòa thượng Phổ Huệ ở chùa Tịnh Lâm – Bình Định đã có bài thơ cảm tác tặng Hòa thượng Phi Lai Chí Thiền:
Phi Lai ngày nay chấn đạo hưng
Chí Thành (Thiền) hình tướng nếp cũ còn
Phong lưu chẳng xóa tâm thường tịnh
Diệu Nghĩa vẫn tham tự tánh tròn
Mây đến, mây đi không vướng mắc
Hoa tàn, hoa nở vẫn thành không
Cảnh quan đẹp đẽ nay thời vận
Cũng tựa linh sơn vui khác nào
Tóm lại, Tổ sư Phi Lai Chí Thiền không những là bậc cao Tăng thạc đức, mà còn là tấm gương sáng ngời của Phật giáo miền Nam. Hòa thượng là một trong những vị cao Tăng đóng góp công đức rất lớn trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam, như: Hòa thượng Khánh Hòa, Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Huệ Quang, Hòa thượng Thiền Chiếu, Hòa thượng Trí Thiền, Hòa thượng Vạn An, Hòa thượng Pháp Hải, Hòa thượng Từ Phong, Hòa thượng An Lạc… Từ cái nôi chùa Phi Lai – Châu Đốc (1928), chùa Linh Sơn – Sài Gòn (1931), chùa Lưỡng Xuyên – Trà Vinh (1934), chùa Tam Bảo – Rạch Giá (1937) đã gây ảnh hưởng và lan tỏa khắp miền Trung, miền Bắc, góp phần thành công trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam do tổ Từ Vân, tổ Khánh Hòa khởi xướng.