Giá trị lớn nhất là về mặt đạo đức xã hội, Phật giáo khuyến khích một đời sống tâm linh hướng thiện. Đối với chùa Viên Giác, môi trường tác động trực tiếp từ trước đến nay vẫn là hoạt động “lễ” gắn với “hội”; hoạt động “hội” để đưa “pháp Phật” đến với cộng đồng.
Bốn chữ “Ngũ diệp lưu phương” trong Tổ đường chùa Viên Giác – TPHCM có biết bao lần Phật tử thắc mắc vì sao lại có mặt nơi đây? Ý nghĩa bốn chữ đó là gì? Nhưng rồi cái câu hỏi đó chỉ đọng lại ở học giả nghiên cứu Phật học hay chư tăng ni mà thôi! Bởi lẽ, Phật tử về chùa mục đích là tu tập. Ngoài ra, mọi nghi vấn là không cần thiết lắm! Tuy nhiên, khách quan mà nói: Có một cảm giác an tâm hơn khi tin rằng văn hóa tôn giáo do văn hóa của mình mang lại là cái tốt nhất trong tất cả tôn giáo.
Từ lúc Tổ Bồ Đề Đạt Ma(普提達戌磨)(?-536) là Tổ thứ 28 của Thiền tông Thiên Trúc (Ấn Độ) và là Sơ Tổ Thiền tông Trung Quốc cho đến khi Lục Tổ Huệ Năng xác lập Thiền Đốn Giáo phương Nam, Thái Hư đại sư mang nó liệt xếp thành thời kỳ thứ nhất (Nhất Hoa) của sự phát triển Thiền tông Trung Quốc, lập danh ‘‘Thiền đốn tâm thành Phật’’. ‘‘Đốn ngộ tự tâm, tức tâm tức Phật’’ là tông chỉ của Thiền pháp thời bấy giờ. Sau Huệ Năng, Thiền tông trở nên hưng thịnh trong thiên hạ và biến thành năm phái Thiền (Ngũ Diệp), tức Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Trong đó, dòng thiền Lâm Tế phát triển thịnh nhất. Từ Trung Hoa, Lâm Tế phát triển sang các nước như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, v.v…
Ở Việt Nam, vào thế kỷ thứ XVI, hai họ Trịnh – Nguyễn phân chia ranh giới Đàng Trong và Đàng Ngoài đã có ảnh hưởng đến lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam. Từ những nguyên nhân chủ quan, khách quan, khiến cho dòng thiền Lâm Tế phát triển đến xứ Đàng Trong của Đại Việt, và vị đệ tử đời thứ 34 tông Lâm Tế khai sơn chùa Chúc Thánh (Hội An, Quảng Nam), trước khi viên tịch đã xuất kệ truyền pháp, hình thành nên thiền phái mới ở Đại Việt; đó là Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo, Sơ Tổ dòng thiền Chúc Thánh. Và theo thời gian, dòng thiền Chúc Thánh theo bước chân của những người mở cõi đến Nam bộ với tinh thần tự giác, giác tha.
Lễ hội Phật giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian
Trên bước đường hoằng hóa, những tu sĩ dòng thiền Chúc Thánh không nhất nhất “Ly gia cát ái” theo tinh thần đạo Phật, mà gắn bó mật thiết với hồng trần theo tinh thần bài kệ truyền pháp của Sơ Tổ Thiền phái Chúc Thánh: “Chúc Thánh thọ thiên cửu/ Kỳ Quốc tộ địa trường” (Chúc Thánh quân tuổi thọ/ Cầu đất nước vững bền), nhưng vẫn ghi nhớ: “Đắc chính luật vi tuyên” (Giới luật nêu trước tiên)(1), nên dễ dàng nhận được sự đồng thuận của những cư dân vùng đất mới. Sự thành công ban đầu ấy, không thể không nói đến lòng tín ngưỡng Phật giáo của người dân Việt và Hoa kiều trong bối cảnh lưu dân lúc bấy giờ mà các nghi thức cúng bái tiếp biến từ tín ngưỡng thuần túy dân gian tạo nên thế mạnh của Phật giáo dân gian Việt Nam với đặc thù của bản địa.
Dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh từ vùng đất Quảng Nam nhanh chóng phát triển đến các tỉnh như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, và vùng đất mới phương Nam. Hiện nay, tại thành phố Hồ Chí Minh có trên hàng trăm ngôi tự viện do chư tăng ni dòng Lâm Tế Chúc Thánh đảm nhận các công tác Phật sự Giáo hội và tông môn.
Những ngày này, sức sống tâm linh của người Việt vẫn là động lực thúc đẩy các thành viên trong tông môn tiếp tục thực hiện sứ mệnh mang lại sự ổn định trong đời sống tinh thần. Và chùa Viên Giác (193 Bùi Thị Xuân, Phường 1, quận Tân Bình, TP.HCM), chúng tôi nhìn thấy điều đó.
Trải qua bốn đời trụ trì chùa Viên Giác, từ một am tranh có tên Độc Giác, nay là ngôi chùa Bắc tông mang dáng dấp một Phật giáo quần chúng trong sinh hoạt lễ hội, tiếp nối truyền thống Ứng phú đạo tràng của chư Tổ. Nơi vẫn dùng phương tiện nhạc lễ Kinh sư, một trong những phương tiện đưa đạo vào đời. Đương kim trụ trì Viên Giác tự là Thượng tọa Thích Đồng Văn thuộc pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh. Thượng tọa Thích Đồng Văn, là đệ tứ trụ trì chùa Viên Giác từ năm 2007 đến nay. Tu học với Hòa thượng Thích Hành Trụ, tại tổ đình Đông Hưng, thuộc đời 42 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh.
Tiếp nối tông phong pháp phái, thượng tọa trụ trì chùa Viên Giác (thế hệ thứ 10 dòng Chúc Thánh) đã có quá trình đóng góp cho sự nghiệp giáo dục tăng ni, cho nhạc lễ Kinh sư, cho ngôi chùa vật chất cũng như tâm linh.
Có người nói rằng chùa Viên Giác trong sinh hoạt tu tập nghiên về sự hơn lý. Bởi nhìn vào hoạt động lễ hội trong năm của chùa, người ta thấy nơi đó phần lớn là hoạt động lễ hội Phật giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian với những nghi thức cúng bái.
Thiết nghĩ, trong bối cảnh nghi lễ Phật giáo chưa được thống nhất giữa các hệ phái Phật giáo và biến đổi nhanh chóng trong quá trình hiện đại hóa – công nghiệp hóa, hội nhập quốc tế hiện nay thì các ý kiến trái chiều xảy ra không có gì làm lạ cả!
Chúng tôi cho rằng, chùa Viên Giác (Tân Bình – TP.HCM) chưa phải là một điển hình truyền thống cho đặc trưng lễ hội Phật giáo Nam bộ, cũng không phải là chùa cổ có lịch sử thành lập lâu đời. Tuy nhiên, từ thực tế sinh hoạt của chùa hơn 60 năm, từ khi khai sơn cho đến nay thì đây là một ngôi chùa vẫn còn giữ lại ít nhiều cổ lệ của chư Tổ như bảo lưu các khoa cúng.
Vía dân gian dưới hình thức Pháp hội
Theo tác giả Hữu Ngọc trong cuốn Lãng du trong văn hóa Việt Nam thì chính sách đổi mới 1986 thể hiện trong hiện đại hóa, công nghiệp hóa, trong đó, về mặt văn hóa: “Không những mở cửa để hấp thu cái mới (cái hay) của phương Tây mà còn của mọi dân tộc trên thế giới (toàn cầu hóa). Không những tìm cái hiện đại bên ngoài, mà cần tìm lại cái cũ (cái hay), cái truyền thống (kể cả cổ truyền) bên trong để bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc”(2). Theo tôi, tinh thần này rất thích hợp với chùa Viên Giác.
Liên quan đến khoa cúng của nghi thức của dân gian, tại Hội thảo khoa học “Lịch sử hình thành Phật giáo cổ truyền Việt Nam và sự đóng góp cho đạo pháp – dân tộc”, Thượng tọa Thích Đồng Bổn đã phát biểu:
“Phật giáo Giáo tông lấy sự thăng trầm của đất nước làm cản bản, lấy sự đau khổ vui buồn của nhân dân mà chia sẻ bằng tất cả những nỗi vui buồn của những khoa cúng của tất cả những nghi thức của dân gian. Bởi Phật giáo đi đâu cũng dùng nghi lễ, ứng phó đạo tràng là dùng nghi lễ, dùng phương tiện đó để xoa dịu cho nhân dân, để tiếp cận với các giới, rồi từ đó mới lan truyền ý nghĩa tôn giáo… Từng lời, câu, nghĩa trong ứng phú đạo tràng nói ra đều là giải thoát cả” (3).
Cũng theo Thượng tọa Thích Đồng Bổn:
“Qua những nghi thức như thế, nhân dân biết thêm trên đời này ngoài “vạn vật hữu linh” mà họ thờ cúng lâu nay, thì có thêm ông Phật uy linh hơn cần phải nương tựa. Nhân dân ta từ xưa, thậm chí không ít người ngày nay biết tới Phật là nhờ qua những nghi lễ như thế, chứ không phải qua kinh sách. Bây giờ trong nghi thức triệu thỉnh vong linh ở các đám ma chay, hay triệu thỉnh thập loại cô hồn trong nghi thức cúng thí trai đàn chẩn tế ở các lễ hội vẫn là như thế”(4).
Chính tinh thần này cũng là trường hợp của chùa Viên Giác.
Tại chùa Viên Giác, từ cách bài trí tôn tượng đến sinh hoạt tu tập và lễ hội trong năm, với các ngày cúng Vía dân gian, nhà chùa tổ chức dưới hình thức Pháp hội như tháng Giêng có pháp hội Dược sư; tháng Bảy có pháp hội Địa Tạng; tháng Mười có Pháp hội Thủy quan giải ách…
Tuy đó, vốn là ba ngày lễ của Đạo giáo nhưng được Phật giáo tổ chức dưới nghi lễ của mình. Tính chất trao đổi ảnh hưởng lẫn nhau cũng rất đậm nét. Đặc biệt, những phong tục dân gian được thực hiện dưới nghi lễ của Phật giáo. Đó là một sinh hoạt văn hóa chuyển tải tính nhân văn, tính dân gian của lễ hội bằng các khoa nghi Phật giáo.
Từ sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian đã đúc kết thành những giá trị văn hóa. Giá trị lớn nhất là về mặt đạo đức xã hội, Phật giáo khuyến khích một đời sống tâm linh hướng thiện. Đối với chùa Viên Giác, môi trường tác động trực tiếp từ trước đến nay vẫn là hoạt động “lễ” gắn với “hội”; hoạt động “hội” để đưa “pháp Phật” đến với cộng đồng.
Pháp sự trong lễ hội là mục tiêu cốt lõi, nhằm chuyển hóa con người tăng trưởng thiện lành, giảm đi xấu ác góp phần ổn định trật tự xã hội, hướng về nguồn cội. Tín ngưỡng truyền thống tuy chưa có một tổ chức quy củ, nhưng khi hòa nhập vào Phật giáo thì có những tập tục dân gian đã được nghi lễ hóa. Điều này cũng nói lên đạo Phật khi đã du nhập vào Việt Nam, ít nhiều phải hội nhập một phần những loại tín ngưỡng đó vào đời sống sinh hoạt thờ cúng của tôn giáo mình. Vì vậy, cúng dường chư Phật, Bồ tát, hiền Thánh tăng bằng các hình thức, như: Văn nghệ cúng dường, phẩm vật, tịnh tài tùy theo hoàn cảnh, dâng lời ca tiếng hát, công phu công quả, tụng kinh, bái sám… Tất cả đều là những sinh hoạt vừa thế tục vừa tâm linh. Điều quan trọng ở đây, nhân dân – những người đến với ngôi nhà Phật giáo bằng niềm tin dân dã, gần gũi, họ tín thành làm những việc thế tục cần làm khi trong tâm vẫn còn quan niệm người chết, hồn đầu thai, vía còn phảng phất…
Chính nghi lễ đã làm cho thế tục này trở nên quy củ thông qua các quy trình của lễ hội. Thông qua các nghi thức cúng bái, cầu nguyện, con người cảm nhận như được chiếu cố, che chở, bảo vệ. Trong hoàn cảnh thiêng, không gian thiêng, tâm tư nguyện vọng sâu kín được bày tỏ một cách công khai trong lời khấn. Một nghi lễ thật dân chủ, tự giải bày, tự cam kết… cũng thật kỷ luật, bởi sự kết nối với người đã khuất này khiến cho mọi người tự khép mình vào khuôn khổ, vào những quy định của lễ nghi.
Có thể thấy, Phật giáo có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người khi thể hiện tinh thần “Hòa nhi bất đồng” còn gọi là “Tùy duyên bất biến” để đi vào đời, để giáo hóa chúng sanh. Nếu chưa xem xét về chiều dài lịch sử của những tập tục trên để thấy tinh thần khoan hòa của đạo Phật, thì một số lễ tục sẽ bị đánh đồng là mê tín dị đoan.
Dung hợp văn hóa thờ Phật với thờ cúng tổ tiên
Chùa Viên Giác bên cạnh cách bài trí tôn tượng, vẫn có chỗ để bảo tồn các trang phục truyền thống, dụng cụ âm nhạc Phật giáo, pháp khí. Quan trọng là bảo tồn khoa nghi ứng phú.
Ngày nay, con người càng ý thức đúng đắn hơn về giá trị cái “thiêng” trong cuộc sống hiện đại, dù có tôn giáo để tựa nương hay không tôn giáo. Chúng tôi cho rằng “thiêng” có từ nội tâm kết hợp với không gian, biểu tượng, sự kiện và nhu cầu thỏa mãn tâm linh trong từng hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh tâm lý cụ thể và được nuôi dưỡng từ niềm tin của cả cộng đồng. Vì thế, chùa Viên Giác là nơi tu tập, thờ tự chư Phật, Bồ tát, thiện thần, hộ pháp,…kết hợp với các nghi thức cúng lễ dân gian. Trong đó, thờ tự là sự biểu hiện kính ngưỡng, cúng lễ mang màu sắc của sự dung hợp văn hóa thờ Phật với thờ cúng tổ tiên.
Với các ngày cúng Vía dân gian, nhà chùa tổ chức dưới hình thức pháp hội như: tháng Giêng có pháp hội Dược sư; tháng Bảy có pháp hội Địa Tạng; tháng Mười có pháp hội Thủy quan Giải ách… Tuy đó vốn là ba ngày lễ của đạo Lão nhưng được Phật giáo tổ chức dưới nghi lễ của mình. Tính chất trao đổi ảnh hưởng lẫn nhau cũng rất đậm nét.
Tất cả các khóa lễ của chùa Viên Giác đã bảo lưu các khoa nghi cúng Phật, các vị Bồ tát và các thiện thần Phật giáo. Bên cạnh đó còn có các khoa nghi thuộc tín ngưỡng dân gian như cầu an, cầu siêu, trai đàn bạt độ… Ở đây, nhà chùa đã lồng tư tưởng Phật giáo vào trong nghi lễ.
Thiết nghĩ, chùa Viên Giác với vị trí đô thị, với đặc điểm lịch sử, với công hạnh tu tập của chư liệt vị Hòa thượng, Thượng tọa và chư Tăng hiện nay không đi ra ngoài quỹ đạo hoằng pháp của đạo Phật nhập thế. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận lại tất cả những giá trị của những khoa nghi Phật giáo như lời trong cuốn Lịch sử truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, có đoạn viết:
“Nghi lễ là một trong những phương tiện đưa đạo vào đời một cách thiết thực. Trong những năm tháng đầu của công cuộc Nam tiến hay những ngày tháng loạn ly tan tác của dân tộc, các vị thiền sư với những lễ nghi qua hình thức cầu an cầu siêu đã an ủi rất nhiều đối với quảng đại quần chúng nhân dân. Tùy theo âm hưởng mỗi vùng mà có cách thức hành lễ tán tụng khác nhau. Từ đó các nghi lễ cúng Phật, cúng Tổ, cúng Giác linh, cúng linh, cúng chẩn tế cô hồn… được chư Tổ tập thành từ kinh điển hoặc điển tích nhà thiền. Đặc biệt, cận đại đây, Hòa thượng Huyền Quang đã phiên dịch các nghi thức từ Hán văn sang Việt văn, đồng thời sáng tác các nghi thức cúng Phật, cúng chư Hòa thượng v.v… góp phần làm phong phú cho nghi lễ nói riêng và văn hóa Phật giáo nói chung” (5).
Lễ hội của chùa Viên Giác giữa người hiểu đạo và người chưa hiểu đạo sẽ có những nhận thức khác nhau. Nhưng chắc hẳn rằng qua lễ hội, từ những nghi lễ cúng bái, từ những bài kinh chú, từ không gian thiêng, từ âm nhạc của đạo, từ uy nghi của người xuất gia, cách hành lễ trang nghiêm, mọi người sẽ biết đến một hình thái lễ nghi truyền thống của Phật giáo Việt Nam và những tập tục dân gian được thực hiện dưới nghi lễ của Phật giáo. Đó là một sinh hoạt văn hóa chuyển tải phong tục dân gian hóa thân vào các khoa nghi Phật giáo.
Câu đối trong Tổ đường chùa Viên Giác, nơi thờ long vị của chư Tổ sư từ Tây Thiên, Đông Độ đến Việt Nam:
“Tổ đạo cao thâm vạn tải trường hưng pháp phái;
Sư truyền yếu chỉ thiên thu vĩnh chấn tông phong”
(祖道高添萬載镸興法派。師傅要旨千秋永振宗風)
Vốn dĩ là những Phật sự mà hiện nay chư tăng chùa Viên Giác vẫn đang tu tập và thực hiện vai trò hoằng pháp bằng phương tiện nghi lễ.
Và qua những nghi lễ ấy, chúng tôi tin chắc rằng mọi người sẽ có được một cảm giác an tâm hơn khi tin rằng văn hóa Phật giáo do văn hóa của người Việt mang lại./.
– Chú thích
- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I, II, III, NXB Văn học, H, 2011, trang 594.
- Hữu Ngọc (2008), Lãng du trong văn hóa Việt Nam, Nxb. Thanh niên, H, tr. 780.
- [Video] TT. Thích Đồng Bổn phát biểu tại HTKH lịch sử hình thành GHPGVN Cổ Truyền VN. 16. Th6. Ngày đăng: 16/06/2020 … Truy cập ngày 7/24/20.
- Thích Đồng Bổn (2020), “Ứng phú đạo tràng phải chăng là nền tảng của Phật giáo cổ truyền?”, Tạp chí Phật học Từ Quang (số 33), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 65.
- Thích Như Tịnh (2009), Lịch sử truyền thừa thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, Nxb. Phương Đông, tr. 554.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1- Hữu Ngọc, Lãng du trong văn hóa Việt Nam, Nxb. Thanh niên, H, 2008.
2- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I, II, III, NXB Văn học, H, 2011.
3-[Video] TT. Thích Đồng Bổn phát biểu tại Hội thảo Khoa học “Lịch sử hình thành GHPGVN Cổ Truyền VN”. 16. Th6. Ngày đăng: 16/6/2020 …
Jun 16, 2020 – Uploaded by Phật Sự Online TV
You visited this page on 7/24/20.
4-Thích Đồng Bổn, “Ứng phú đạo tràng phải chăng là nền tảng của Phật giáo cổ truyền?”, Tạp chí Phật học Từ Quang (số 33), Nxb. Hồng Đức, H, 2020.
5- Thích Như Tịnh, Lịch sử truyền thừa thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, Nxb. Phương Đông, 2009.