Chùa Vu Lan ngày đó được nhiều người tín nhiệm, kể cả người ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Theo tôi, đây không chỉ là phước duyên của chùa mà còn nhờ vào đạo hạnh của các vị trụ trì cũng như chư tăng. Ngay cả những ngày này, phương tiện đi lại thuận lợi, cuộc sống người dân có khá hơn, nhưng không phải chùa nào cũng có phước duyên như thế.
Từ đời thực cho đến phim ảnh, sách vở, chúng ta đều biết những Phật tử sau khi xuất gia đều phải cạo đầu. Theo Phật môn, cạo đầu không phải muốn làm cho khác người, mà cạo đầu là cạo đi ba nghìn phiền não để người tu hành dễ tìm thấy đạo tâm của mình. Theo truyền thống, những Phật tử sau khi xuất gia thì dùng Pháp danh, Pháp tự, Pháp hiệu, nhưng không hiểu sao một số tài liệu lịch sử Phật giáo lại ghi thế danh, chứ không ghi Pháp danh, Pháp tự, Pháp hiệu, nên khó biết vị tu sĩ ấy thuộc dòng phái nào và tại sao như thế? Chẳng hạn: “Thiền sư Đỗ Văn Hỷ lại chủ trương khắc bản in thêm kinh sách, kể cả những kinh lớn như Đại Bảo Tích”1; “Vào năm 1956 nhà sư Lê Minh Ý nghe danh Hòa thượng Trí Châu là bậc cao tăng thật học nên sư Lê Minh Ý đến cầu pháp và tu học tại chùa Long Sơn”2; “Bổn sư Nguyễn Từ Trí vốn được sắc tứ làm Tăng cang của hai chùa Tam Thai và Linh Ứng, bổn sư Lê Từ Nhẫn và Nguyễn Phước Trí cũng đã được sắc chuẩn làm trú trì hai chùa này, quý ngài cũng thuận tình đứng đơn bẩm lên, được cấp trên đồng ý chuẩn cử Tăng mục chùa Tam Thai là Phạm Hưng Long làm trú trì [chùa Vu Lan]”3…
Từ chùa Tam Thai nghĩ về chùa Vu Lan
Theo Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, thì chùa Tam Thai là một trong năm Tổ đình của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam – Đà Nẵng. Và cũng theo Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, thì “Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết được vị nào là Tổ sư khai sơn cũng như niên đại thành lập chùa. Tài liệu nói về Tam Thai sớm nhất là cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự của thiền sư Thạch Liêm – Đại Sán. Ngài qua Đàng Trong vào năm Ất Hợi (1795) và đã tả lại như sau: “Đấy là núi Tam Thai, ngôi chùa trong ấy tức là đạo tràng của ngài Quả Hoằng (Hưng Liên) quốc sư, ngày mai chắc lẽ qua đó chơi… Đi quanh qua mé núi, thấy đá có viên mọc đứng thẳng lên lại có chỗ dựng đứng như bức vách, nhưng chẳng thấy chùa đâu, tưởng chẳng có gì kỳ thú vậy. Chúng tôi đi cách vách núi chừng nửa dặm thấy một thầy sãi đứng nhìn chăm chỉ, rồi vội chui vào kẽ đá sau núi đi mất. Trước núi có một cái gò, trước gò leo lên chừng trăm bước có một ngôi chùa cổ, sãi trông chùa đánh chuông trống, mặc áo tràng ra rước vào lễ Phật, mời ngồi, thết trà, cung đón tươm tất”.
Theo sử liệu thì ngài Hưng Liên – Quả Hoằng là đệ tử của ngài Thạch Liêm, qua Đàng Trong cùng với ngài Nguyên Thiều vào năm 1677. Ngài Hưng Liên được chúa Nguyễn Phúc Chu tôn làm Quốc sư và trụ trì tại đạo tràng Tam Thai để hoằng pháp. Như vậy, chùa Tam Thai đã có từ rất lâu với những kiến trúc quy mô của một ngôi đại tự.
Đặc biệt, trong hệ thống các chùa tại Quảng Nam thì chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng trên núi Ngũ Hành được các vua nhà Nguyễn sắc phong Quốc tự. Đặc ân này có liên quan đến truyền thuyết sau: Trong thời chiến tranh Tây Sơn và nhà Nguyễn, vua Gia Long dẫn đoàn chiến thuyền ra Phú Xuân để khôi phục cơ đồ. Khi đến cửa biển Sơn Trà thì sóng to gió lớn không đi được. Sự việc kéo dài vài ngày, vua bèn lên núi Ngũ Hành, đến chùa Tam Thai khấn nguyện: “Xin cho trời êm biển lặng, nếu thu phục lại cơ đồ thì phát nguyện trùng tu lại chùa” (lúc này chùa Tam Thai bị tàn phá bởi chiến tranh). Khấn xong thì trời quang mây tạnh và đoàn chiến thuyền tiếp tục hành trình. Sau khi lên ngôi, do bận nhiều quốc sự nên vua Gia Long chưa thực hiện được lời nguyện năm xưa. Đến đời vua Minh Mạng, ông đã hoàn thành lời nguyện của Tiên vương. Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), vua đã ngự đến Tam Thai và trùng tu lại chùa này. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), vua đúc tượng Phật bằng đồng cúng dường chùa, đồng thời bổ nhiệm ngài Viên Trừng ở chùa Thiên Mụ vào làm trú trì chùa Tam Thai.
Hòa thượng Viên Trừng, pháp danh Tiên Thường, thế danh Trần Văn Trừng, người huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Ngài là bậc Cao tăng, giới hạnh trang nghiêm và công phu hành trì miên mật. Đạo phong của Ngài ảnh hưởng rất lớn đối với triều Nguyễn nên em gái vua Minh Mạng đã quy y thế phát với Ngài tại đây, Ngài tịch vào năm Tự Đức thứ 6 (1853), hưởng thọ 77 tuổi. Nhục thân của Ngài được tôn trí trong bảo tháp tại ngọn Thổ Sơn và tồn tại cho đến ngày nay.
Sau khi ngài Viên Trừng tịch thì các thiền sư thuộc dòng Chúc Thánh được các vua nhà Nguyễn bổ nhiệm làm trú trì hoặc Tăng cang. Tính từ ngài Viên Trừng thì đã trải qua 13 đời trú trì”4. Dù khai sơn chùa Tam Thai không phải do thiền sư của dòng phái Chúc Thánh, nhưng những đời trú trì sau Ngài Viên Trừng đều là các thiền sư của dòng phái Chúc Thánh, tính đến nay (1854-2020) là 166 năm. Thời gian tồn tại hơn 100 năm là một trong những điều kiện quan trọng cần có để chùa Tam Thai được xếp hạng Tổ đình. Và chùa Vu Lan (Đà Nẵng) cũng có phần giống như thế.
Người bố thí sẽ hơn người không bố thí
Chùa Vu Lan (84 đường Núi Thành, TP Đà Nẵng), tồn tại đã hơn 100 năm. Hồi xưa, mỗi năm đến ngày rằm tháng 7, nhân dân ở khu vực này và lân cận không cúng cô hồn như thông lệ mà tổ chức theo khoa nghi Phật giáo và Hội Tế Lễ Vu Lan ra đời. Theo Lược khảo Phật giáo sử Đà Nẵng, thì sự kiện ấy diễn ra “vào năm Thành Thái thứ 15 [1894]”5. Tài liệu này có phần sai lệch 9 năm, vì vua Thành Thái tại vị từ năm 1889 đến năm 1907; như vậy Thành Thái thứ 15 không phải năm 1889. Nhưng sự kiện ấy diễn ra năm 1894 hay năm Thành Thái thứ 15 (1903), thì cho chúng ta biết khởi thủy chùa Vu Lan đã có mặt tại đây hơn 100 năm, bởi khi Hội Tế lễ Vu Lan ra đời, thì hội đã vận động tiền của mua đất dựng chùa để “trước làm nơi thờ Phật thánh, sau để phụng sự tiên linh”6. “Hội đã cung thỉnh bổn sư Thích Từ Trí, vốn là Tăng cang của hai chùa Tam Thai và Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn, cùng bổn sư Thích Từ Nhẫn, Thích Phước Trí là trú trì hai chùa lớn ấy, các ngài đều thuận tình đứng đơn xin phép dựng chùa”7. Và chùa được khởi công xây dựng vào năm 1906, đặt tên là chùa Vu Lan. “Tăng mục chùa Tam Thai là Hòa thượng Thích Trí Hưng cũng được sắc chuẩn làm trú trì, đó là vị trú trì đầu tiên của chùa Vu Lan”8, và từ năm 1974 đến nay, chùa Vu Lan do các thiền sư dòng phái Chúc Thánh trụ trì. Cụ thể, “từ năm 1974 đến năm 2010, Hòa thượng Thích Như Nghĩa; từ năm 2010 đến nay, Hòa thượng Thích Như Thọ”9.
Theo Phan Đăng, tác giả bài Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng, thì chùa Vu Lan có 6 văn bia. “Bia số 1: Ghi việc xây dựng chùa và công đức phụng cúng, dựng năm 1916, đã có thác bản số 19269 lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội); Bia số 2: Ghi việc trùng tu chùa và công đức, dựng năm 1928, đã có thác bản số 19266 lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội); Bia số 3: Ghi việc trùng tu chùa và công đức, cũng dựng năm 1928, đã có thác bản số 19268 lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội); Bia số 4 và số 5: Ghi công đức, có lẽ văn bia số 5 là phần tiếp nối của văn bia số 4, dựng năm 1931. Hai bia này được khắc trên một loại đá chất liệu kém hơn so với các bia kể trên, cách trình bày cũng không được rõ ràng, chữ không đẹp, lại bị thiếu hoặc mất nên khó đọc (…); Bia số 6: Ghi linh vị của một gia đình họ Đỗ, gốc ở xã Chương Dương, tỉnh Hà Đông. Có lẽ đây là gia đình đã có công đức và ký tự ở chùa. Bia này được gắn vào vách sau bàn linh, đặt trên lầu, sau chánh điện, trong khi 5 bia đá đã nói đều được gắn vào vách phía trước ở tầng trệt, ngay dưới chánh điện chùa”10.
Qua Văn bia số 1, chúng ta được biết “giữa năm Bính Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 18 [1906] khởi công xây dựng chùa. Qua niên hiệu Duy Tân thứ 3 [1909] đúc đại hồng chung. Từ đó tượng Phật, tranh ảnh và tự khí ngày càng đầy đủ cho việc thờ cúng, cũng vào lúc này, đạo hữu muốn khắc phương danh công đức lên đá để lưu lại ngàn sau”11. Trong đó, ngoài bà con ở địa phương, thiện tín thập phương, có “Bà mệnh phụ họ Vũ, phu nhân của Thái tử Thiếu bảo Tổng đốc Nam Ngãi họ Hồ cúng 25 đồng và 4 bức tràng phan”12. Năm 1928 (niên hiệu Bảo Đại thứ 3), chùa trung tu, nhờ “Gặp lúc quan Tinh binh Chánh suất đội Phạm Vinh Lương đã cùng đạo tràng bổn phổ thành kính phát tâm trợ lực, kíp dựng lại đông đường càng khang trang đẹp mắt”13 (Văn bia số 2). Đặc biệt, lần trùng tu này, chúng tôi thấy có “Khách thập phương thuộc tỉnh Hà Nội và Tuyên Quang xứ Bắc Kỳ cúng tiền là 155 đồng.
Khách thập phương thuộc phủ Soài Rạp, tỉnh Cao Miên cúng tiền là 273 đồng”14.
Lần trùng tu năm 1931, không thiếu những người có danh trong xã hội lúc bấy giờ, như: “… Hồng lô Tằng 10 đồng, Thị độc Hồ Chương 2 đồng, Thị độc Vũ Như Kim 3 đồng, Thị độc Huỳnh Ngọc Thịnh 3 đồng, Thị độc Ngô Khắc Tuấn 2 đồng, Thị độc Lê Đức Triệu 3 đồng, Thị độc Lê Quang Ngoạn 3 đồng, Thông phán Lê Văn Tiền 3 đồng, Thông phán Lê Tấn Ty (Tư) 8 đồng, Thông phán Huỳnh Thanh 2 đồng, Kiểm tịch Vũ Hồ Kiệm 3 đồng, Thông sự Huỳnh Huy Văn 1 đồng, Nghị viên Nguyễn Đồng 5 đồng…”15. Đặc biệt, Văn bia số 6, chỉ ghi linh vị của gia đình họ Đỗ, gốc ở xã Chương Dương, tỉnh Hà Đông, thờ tại chùa Vu Lan. Bia này ghi từ ông cố xuống tới con cháu, thậm chí có cả chị dâu, em gái, em trai…16. Điều này cho thấy chùa Vu Lan ngày đó được nhiều người tín nhiệm, kể cả người ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Theo tôi, đây không chỉ là phước duyên của chùa mà còn nhờ vào đạo hạnh của các vị trụ trì cũng như chư tăng. Ngay cả những ngày này, phương tiện đi lại thuận lợi, cuộc sống của người dân có khá hơn, nhưng không phải chùa nào cũng có phước duyên như thế. Và các thiền sư dòng Chúc Thánh trụ trì chùa Vu Lan gần nửa thế kỷ qua cũng nối mạch truyền thừa phước duyên ấy.
Có người cho rằng, cúng dường Tam bảo phải là “tịnh tài tịnh vật”, nhưng tài vật cúng dường ở chùa Vu Lan như dẫn ở trên chắc gì “tịnh tài tịnh vật”. Tôi thì nghĩ khác, và trong Đại Tạng Kinh Việt Nam cũng có đoạn: “Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Sumanà, con gái vua cùng năm trăm thiếu nữ hộ tống, đi đến đảnh lễ và bạch Thế Tôn:
Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai đệ tử của Thế Tôn đồng đẳng về tín, đồng đẳng về giới, đồng đẳng về tuệ, một có bố thí, một không bố thí. Sau khi thân hoại mạng chung thì giữa hai vị ấy được sanh lên cõi trời hoặc sanh lại cõi người thì giữa hai vị ấy, có sự đặc thù gì, có sự sai khác gì?
Có sự sai biệt, này Sumanà!
Người có bố thí, khi được làm một vị trời hoặc được là người đều vượt qua người không bố thí trên năm phương diện. Đó là thọ mạng, nhan sắc, an lạc, danh xưng và tăng thượng. Người có bố thí, này Sumanà, khi được làm vị trời hoặc được làm người đều vượt qua người không bố thí về năm phương diện này”17.
Hai người cùng làm một công việc trong một thời điểm và có tài sức ngang ngữa nhau, thế nhưng có người thành công và có người lại thất bại. Đối với những người không thành công, họ hay tự an ủi mình rằng số mình chưa tới thời hoặc họ đổ thừa: “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Nhưng ít ai biết rằng tất cả nên hư, thành bại, tốt xấu đều do mình tạo ra trong quá khứ hoặc trong hiện tại.
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về hạnh bố thí giúp đỡ sẻ chia có sự chênh lệch, người bố thí nhiều hơn sẽ được phước báo tối thắng. Người bố thí sẽ hơn người không bố thí trên năm phương diện thọ mạng, nhan sắc, an lạc, danh xưng và tăng trưởng về mọi mặt. Chính vì thế, người Phật tử tại gia cần phải phước huệ song tu, để đạt được trọn vẹn về mọi mặt. Người biết bố thí sẽ xả bớt lòng tham lam ích kỷ, tăng trưởng tâm từ bi để sống đời an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Bố thí và cúng dường là pháp tu phổ biến của người Phật tử tại gia. Người thực hành bố thí và cúng dường trước hết phải xuất phát từ sự tự nguyện với lòng vui vẻ hân hoan. Bố thí với tâm thanh tịnh, không thấy mình là kẻ ban ơn, thì chắc chắn sẽ thấy vui trong lòng. Và một khi thấy lòng mình vui là tốt rồi./.
-Chú thích
- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, I, II, II, NXB Văn học, H, 2011, trang 757.
- Hòa thượng Thích Giác Quang, Pháp giáo Liên tông Tịnh độ Non Bồng, NXB Hồng Đức, H, 2019, trang 53.
- Phan Đăng, Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng, Tạp chí Liễu Quán, tháng 8-2020, trang 28.
- Thích Như Tịnh, Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh, NXB Phương Đông, 2009, trang 150-152.
- Thích Đức Trí, Lược khảo Phật giáo sử Đà Nẵng, NXB Tôn giáo, H, 2013, trang 98.
- Văn bia số 1.- Dẫn theo Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng, trang 26.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng, đd, trang 26.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng, đd, trang 26.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng, đd, trang 26.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng; đd, trang 26.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng; đd, trang 28.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng; đd, trang 28.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng; đd, trang 29.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng; đd, trang 29.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng; đd, trang 30.
- Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng; đd, trang 33.
- Đại Tạng kinh Việt Nam, Tăng Chi II, chương 5, phẩm Sumanà, phần Con gái vua, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1996, trang 351.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1- Đại Tạng kinh Việt Nam, Tăng Chi II, chương 5, phẩm Sumanà, phần Con gái vua, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1996.
2- Hòa thượng Thích Giác Quang, Pháp giáo Liên tông Tịnh độ Non Bồng, NXB Hồng Đức, H, 2019.
3- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, I, II, II, NXB Văn học, H, 2011.
4- Phan Đăng, Văn bia chùa Vu Lan ở Đà Nẵng, Tạp chí Liễu Quán, tháng 8-2020.
5- Thích Đức Trí, Lược khảo Phật giáo sử Đà Nẵng, NXB Tôn giáo, H, 2013.
6- Thích Như Tịnh, Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh, NXB Phương Đông, 2009.