Lược khảo Tổ đình Sắc Tứ Vu Lan di sản Văn hóa Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng (Tâm An, Đinh Công Thanh Minh)

            Kế thừa ánh Thiền đăng của Thế Tôn, lịch đại Tổ sư đã dày công giáo hóa, tiếp nối sứ mạng:“Trụ Pháp Vương gia, Trì Như Lai tạng”. Vì vậy, từ nơi rừng sâu cho đến đồng bằng, từ thôn quê cho đến thành thị, chư vị Tổ sư luôn thành lập tùng lâm, kiến tạo đạo tràng, giữ gìn quy củ thiền gia, để xiển dương Chánh giáo, hóa độ quần sanh. Chùa Vu Lan tại thành phố Đà Nẵng ra đời cũng không ra ngoài mục đích cao cả, thiêng liêng đó. Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển, chùa Vu Lan đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của Phật giáo Đà thành cũng như Thiền phái Chúc Thánh. Thông qua những tư liệu còn lưu lại, chúng tôi xin trình bày về sự hình thành Tổ đình Vu Lan, nhằm mục đích làm sáng tỏ vai trò của ngôi Tổ đình lịch sử này.

            1. Duyên khởi hình thành

            Vào đầu thế kỷ XX, xứ Hòa Thuận(1) thuộc nhượng địa Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam là một vùng đất khá hoang sơ, ruộng đất bạt ngàn, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Trong nỗi khốn khó ấy người dân muốn tìm đến một chỗ dựa tâm linh ngõ hầu tìm sự an lạc. Và từ xưa đến nay, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc trong những lúc gian nguy. Thế rồi, chư bô lão làng Hòa Thuận, hạt Đà Nẵng, đứng ra lập lễ tế Vu Lan, nguyện cầu âm siêu dương thái. Các vị xuất tiền mua một mảnh đất, xây dựng ngôi am tranh nhỏ để chúng dân địa phương có nơi lễ bái hướng tâm cầu nguyện cho những người đã khuất. Cần có một vị Thầy hướng dẫn tinh thần cũng như đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh, các vị bô lão đồng nhất cung thỉnh Hòa thượng Phạm Hưng Long, Tăng mục chùa Tam Thai làm vị khai sơn bổn tự. Khởi nguyên hình thành ngôi chùa Vu Lan bắt nguồn từ đó.

            Một đoạn văn bia năm Khải Định nguyên niên (1916): “… 成 泰 十 五 六 等 年 合 私 財 揀 買 土 園 充 物 單 憑 構 造 承…” (Thành Thái thập ngũ, lục đẳng niên hợp tư tài giản mãi thổ viên sung vật đan bằng cấu tạo thừa). Vào năm Thành Thái thứ 15 và 16 (1904, 1905), chư bô lão đã cùng nhau mua một mảnh vườn nhỏ để kiến thiết già lam, nương nhờ cửa Phật, với sự đồng ý của Tỉnh đường địa phương. Đây chính là thời điểm ra đời của Tổ đình Sắc tứ Vu Lan.

            2. Lược sử hình thành và phát triển

            Sau khi mua đất lập chùa, chư vị bô lão liền đến danh thắng Ngũ Hành để cung thỉnh một vị Tăng về trụ trì, sớm hôm kinh kệ hướng dẫn tu học. Hội đồng Tăng lữ dưới sự chứng tri của ngài Tăng cang Nguyễn Từ Trí(2) đã cử Tăng mục Phạm(3) Hưng Long làm trụ trì chùa Vu Lan. “… 御 製 三 台 靈 應 二 寺 敕 賜 僧 綱 阮 慈 智 本 師 . 敕 準 住 持 黎 慈 忍 . 阮 福 智 本 師 . 垂 情 擬 量 仝 單 . 禀 敍 候 承 . 商 許 併 擧 . 三 台 寺 僧 目 范 興 隆 為 住 持 …” (… Ngự chế Tam Thai – Linh Ứng nhị tự Sắc tứ Tăng Cang Nguyễn Từ Trí Bổn sư, Sắc chuẩn trụ trì Lê Từ Nhẫn, Nguyễn Phước Trí Bổn sư. Thùy tình nghĩ lượng đồng đơn. Bẩm tự hậu thừa. Thương hổ tính cử. Tam Thai tự Tăng Mục Phạm Hưng Long vi trụ trì…). Và Hòa thượng Hưng Long được tôn xưng là Tổ khai sơn Tổ đình Vu Lan.

            Giữa năm Thành Thái thứ 18 (1907), Hòa thượng Phạm Hưng Long cùng sự hộ trợ của ngài Tú tài Hồ Tiên Phong chính thức xây chùa theo lối nhà 3 gian 2 chái. Năm Duy Tân thứ 3 (1910), ngài chú tạo quả hồng chung(4) nặng 250 cân dưới sự chứng minh của Tổ sư Từ Trí và các bảo tượng, pháp khí tại chùa để phụng thờ dài lâu. “… 秀 才 胡 仙 峰 相 擇 至 成 泰 十 八 年 丙 午 中 建 維 新 三 年 鑄 大 銅 鐘 嗣 此 像 影 …” (tú tài Hồ Tiên Phong tương trạch chí Thành Thái thập bát niên, Bính Ngọ trung kiến, Duy Tân tam niên, chú đại hồng chung tự thử tượng ảnh). Được sự bảo hộ của quan Tổng đốc Nam Ngãi kiêm Thái Tử thiếu bảo họ Hồ, năm Khải Định nguyên niên (1916), Hòa thượng đại trùng tu chùa.

            Năm Giáp Tý (1924), Tổ khai sơn viên tịch, Hòa thượng Tôn Bảo được sơn môn cử làm Tự trưởng chùa Vu Lan. Năm Bảo Đại thứ 3 (1928), Hòa thượng Tôn Bảo cùng cư sĩ Phạm Vinh Lương, Ngô Văn Vân… trùng tu tiền đường, tăng xá, xây dựng nhà bia(5)… với sự cúng dường của các quan lại, các tỉnh phía Bắc, ngoại quốc(6),.. Mãi đến thập niên 30, chùa mới dựng cổng tam quan. Năm Bảo Đại thứ 5 (1930), Hòa thượng Tôn Bảo được chính quyền quan tòa công nhận lý bạ chùa Vu Lan(7), từ đây Ngài chính thức đăng ngôi vị trụ trì. Từ đó, ngài thế độ đồ chúng, truyền bá giáo lý, xiển dương tông môn Chúc Thánh. Mùa thu năm Bảo Đại thứ 9 (1934), chùa Vu Lan được triều đình khâm ban “Sắc tứ”(8).

            Năm Nhâm Thìn (1952), Hòa thượng Thích Tôn Bảo đúc quả hồng chung nặng 210 cân và quả chuông gia trì9, đặt dưới sự chứng minh của Hòa thượng Tăng cang Thiện Quả, hộ chú bởi cư sĩ Trần Ngọc Lan. Năm Đinh Mùi (1967), chùa Vu Lan được trùng tu theo lối kiến trúc chùa hội. Năm 1973, Hòa thượng Thích Tôn Bảo chú tạo pho tượng Phật A Di Đà bằng đồng cao 1 m.

            Năm Giáp Dần (1974), Hòa thượng Thích Tôn Bảo viên tịch. Đệ tử ngài là Hòa thượng Thích Như Nghĩa kế vị trụ trì(10). Năm 1995, Hòa thượng Thích Như Nghĩa trùng tu lại tam quan, hậu tổ và xây dựng tượng Quan Âm lộ thiên.

            Năm 2010, vì Hòa thượng Thích Như Nghĩa tuổi cao, nên Hòa thượng Thích Như Thọ cùng môn phái Chúc Thánh đứng ra trùng tu ngôi già lam Vu Lan huy hoàng như ngày hôm nay, xây cổng tam quan mới, chú tạo Hồng chung nặng 1 tấn, đúc tượng Phật Thích Ca và nhị vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền. Năm 2012, Hòa thượng Thích Như Nghĩa viên tịch. Năm 2013, Hòa thượng Thích Như Thọ được Giáo hội và môn phái suy cử làm trụ trì Tổ đình Vu Lan.

            Hiện nay, Hòa thượng Thích Như Thọ vẫn luôn thao thức trùng tu thêm tiền đường, nhà giảng, và tu bổ lại vườn tháp Tổ. Tổ đình Sắc Tứ Vu Lan là một trong những nơi quy tụ của chư tôn đức môn phái Lâm Tế Chúc Thánh trong các dịp lễ húy kỵ, hội họp, an cư tự tứ… Tuy được hình thành chỉ 100 năm nhưng nơi đây đã lưu dấu biết bao tinh hoa về giá trị thẩm mỹ, tính độc đáo về nghệ thuật mang đậm sự kết hợp giữa phong kiến và thời đầu phong trào chấn hưng Phật giáo.

            3. Lịch đại trụ trì Tổ đình Vu Lan

            Theo mạng mạch truyền thừa của Tổ đình Sắc tứ Vu Lan, chùa đã trải qua hơn một thế kỷ cùng thăng trầm với biến thiên của xứ Đà thành. Với 110 năm kiết tập an cư, giáo hóa phàm chúng, chùa đã trải qua 4 đời trụ trì như sau:

            1. Hòa thượng Phạm Hưng Long (…?(12)-1924?)

            Hòa thượng thế danh Phạm Văn Cẩn, nguyên quán tại Đập Đá, Bình Định. Ngài xuất gia với ngài Tăng cang Ấn Lan Từ Trí tại chùa Tam Thai nên có pháp danh Chơn Quyên, tự Đạo Cát, hiệu Hưng Long, nối pháp đời 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 7 Thiền phái Chúc Thánh. Năm Quý Mẹo (1903), Thành Thái thứ 15, Ngài được quan triều bổ làm Tăng mục chùa Tam Thai. Ngài được chư bô lão làng Hòa Thuận cung thỉnh về khai sơn chùa Vu Lan vào đầu thế kỷ XX. Năm Duy Tân thứ 3 (1909), ngài đứng ra chú tạo quả chuông hơn 200 cân dưới sự chứng minh của Hòa thượng Bổn sư. Năm 1924, niên hiệu Khải Định thứ 10, Ngài đã vĩnh viễn đưa huyễn thân mình hòa vào dòng biển mẹ khi trên một chuyến tàu về thăm cố hương. Tháp vọng được tôn trí bên phía Đông Tổ đình. Vì kỷ niệm ngày ra đi của Ngài, sơn môn Tam Thai – Linh Ứng đã dựng bia tháp để tưởng nhớ ngài. Đặc biệt, long vị Ngài làm bằng chất liệu đồng mạ bạc(13) tôn thờ tại Tổ đường chùa Vu Lan. Cuộc đời của Ngài quả thật là: “Nhạn quá trường không”.

            2. Hòa thượng Thích Tôn Bảo (1895-1974)

            Hòa thượng thế danh Phạm Nhữ Hựu, sinh năm Ất Mùi (1895) tại làng Hương Quế, tổng Hương Phú, Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Là con cháu nhiều đời danh tướng Phạm Ngũ Lão và Trung quân Đô thống Phạm Nhữ Tăng. Năm 8 tuổi, ngài xuất gia với Tổ Từ Trí và được Tổ truyền sa di giới ban pháp húy Chơn Tá, tự Đạo Hóa, nối pháp đời 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 7 Thiền phái Chúc Thánh. Năm 1916, ngài đăng đàn thọ cụ túc giới(14) tại Tổ đình Tam Thai. Năm 1921, Bổn sư viên tịch, ngài cầu pháp Hòa thượng Phước Trí được ngài ban hiệu Tôn Bảo. Năm 1924, Tổ khai sơn chùa Vu Lan viên tịch, ngài được cử về làm Tự trưởng chùa Vu Lan. Sau đó, ngài giữ các chức vụ Phó Trị sự chư sơn tỉnh Quảng Nam, Kiểm tăng huyện Hòa Vang. Năm Mậu Thìn (1928), ngài làm đệ tứ dẫn thỉnh Thượng tọa tại đại giới đàn chùa Từ Vân. Năm 1930, ngài chính thức trụ trì chùa Vu Lan. Năm 1935, Ngài được cung thỉnh làm Đệ ngũ Tôn chứng tại giới đàn chùa Sắc tứ Tịnh Quang (Quảng Trị). Trong thập niên 30, Theo “Lịch sử Phật Giáo Ngũ Hành sơn”(15) của Hòa thượng Hương Sơn, ngài được triều đình sắc phong Tăng cang. Năm 1945, ngài được bầu làm Hội trưởng Hội Phật học Đà Nẵng, hỗ trợ trực tiếp cho Tòa soạn Tạp chí Tam Bảo tại chùa Vu Lan. Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, ngài là rường cột của Phật giáo miền Trung và được cử làm chứng minh Đạo sư cho Giáo hội Tăng già Quảng Nam – Đà Nẵng.

            Các năm 1963, 1966, ngài là lãnh đạo tối cao trong phong trào đấu tranh đòi hỏi tự do tín ngưỡng tại thị xã Đà Nẵng. Năm 1967, ngài được suy tôn vào ngôi vị Thành viên Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng thống GHPGVNTN. Năm 1970, Phật Học viện Phổ Đà tổ chức đại Giới đàn Vĩnh Gia, ngài được cung thỉnh làm đệ nhất tôn chứng. Năm 1974, Ngài được cung thỉnh làm Đường đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn chùa Long Tuyền do Phật học viện Quảng Nam tổ chức. Vào ngày 27 tháng 10 năm Giáp Dần (10.12.1974) lúc 11 giờ 45 phút, Ngài xả báo an tường, trụ thế 80 xuân thu, 58 pháp lạp. Bảo tháp ngài an trí gần cạnh bảo tháp Tổ khai sơn chùa Vu Lan. Đệ tử Hòa thượng tiêu biểu có một số vị sau: Hòa thượng Thích Như Mãn(16), Hòa thượng Thích Như Nghĩa, Hòa thượng Thích Như Thọ (đương kim trụ trì chùa Vu Lan), Ni trưởng Thích Nữ Giải Thiện (trụ trì thiền tự Bảo Châu),…

            Ngài là bậc lương đống của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng. Trong lòng Tăng tín đồ, Ngài luôn luôn là vị thầy tinh thần, làm chỗ dựa cho hậu học, là một bậc đức hạnh giữa chốn tùng lâm.

            3. Hòa thượng Thích Như Nghĩa (1920-2012)

            Hòa thượng thế danh Thân Vy, sinh năm Canh Thân (1920), nguyên quán Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ nhỏ, ngài xuất gia với Đại lão Hòa thượng Tôn Bảo được Bổn sư truyền sa di giới ban pháp danh Như Nghĩa, tự Giải Chánh. Đến năm Canh Tuất (1970), tại đại giới đàn Vĩnh Gia, ngài đăng đàn thọ đại giới với pháp hiệu Giác Hạnh, nối pháp đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 Thiền phái Chúc Thánh. Kể từ đây, ngài gia nhập vào hàng chúng trung tôn. Sau năm 1974, vì chốn tổ vắng bóng tôn sư, ngài được môn phái cung thỉnh làm kế vị trụ trì đời thứ 3 chùa Vu Lan. Từ đây, ngài ra sức trùng tu ngôi đại già lam. Năm 1995, ngài trùng tu cổng chùa, hậu tổ và Quan Âm các. Ngày 28-5 năm Kỷ Sửu (2009), ngài cùng Hòa thượng Thích Như Thọ chứng minh chú tạo quả hồng chung chùa Vu Lan. Năm 2012, vì tuổi cao sức yếu, ngài thuận thế vô thường thâu thần viên tịch trụ thế 92 tuổi đời, 42 hạ lạp. Sinh tiền, ngài là người tinh thông nho học và có nét chữ đẹp nhất lúc bấy giờ. Sự ra đi của ngài để lại nỗi mất mát vô cùng lớn lao cho môn phái Lâm Tế Chúc Thánh tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.

            4. Hòa thượng Thích Như Thọ (sanh năm 1930)

            Hòa thượng thế danh Đinh Công Quế, sinh năm Canh Ngọ (1930) tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Năm 1950, Hòa thượng xuất gia với ngài Tăng cang Thiện Quả tại Tổ đình Chúc Thánh với pháp danh Như Thọ, tự Giải Hòe. nối pháp đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 Thiền phái Chúc Thánh. Năm 1962, Bổn sư viên tịch, Hòa thượng ra Đà Nẵng nhập chúng tu học với Hòa thượng Tôn Bảo tại chùa Vu Lan. Năm 1970, Hòa thượng thọ Cụ Ngài là bậc lương đống của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng. Trong lòng Tăng tín đồ, Ngài luôn luôn là vị thầy tinh thần, làm chỗ dựa cho hậu học, là một bậc đức hạnh giữa chốn tùng lâm.

            Hòa thượng là người giỏi Nho học cũng như nghi lễ nên nhiều nhiệm kỳ được Giáo hội cử làm Trưởng Ban nghi lễ Phật giáo Đà Nẵng. Năm 2013, Hòa thượng kế nghiệp Hòa thượng Như Nghĩa trụ trì Tổ đình Vu Lan. Hiện nay, Hòa thượng đã trên 90 tuổi, là thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội, chứng minh đạo sư môn phái Lâm Tế Chúc Thánh, trưởng môn phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Đà Nẵng.

            4. Di sản văn hóa Hán Nôm tại Tổ đình Sắc tứ Vu Lan

            Trong cuộc chiến tranh Pháp Việt, chùa đã bị lính Pháp đốt cháy phá hủy nhiều lần. Vì thế, rất nhiều thư tịch cổ như độ điệp, pháp quyển, pháp phái v.v… bị thiêu hủy. Nhưng nhờ sự bảo quản của chư tôn đức có tâm huyết cùng thiện tín Phật tử, chùa hiện nay còn lưu giữ nhiều cổ vật mang tính lịch sử rất cao như văn bia, hoành phi, liễn đối, tượng Phật, pháp khí,…

            4.1. Văn bia

            Hiện nay, chùa Vu Lan còn lưu giữ 6 tấm văn bia bằng đá Non Nước. Nơi đây, chúng tôi chỉ giới thiệu 4 tấm chính, còn 2 tấm có nội dung ghi phương danh thiện tín cúng dường và cũng không rõ niên hiệu (2 tấm này đã bị bễ đôi do sự bất cẩn của thợ khi xây chùa)(17) nên không ghi vào đây. Khi xưa, các văn bia đều ốp vào bi đình, sau năm 1967, bi đình được triệt hạ để mở rộng chùa nên tất cả các văn bia đều ốp vào tường, duy nhất 1 văn bia vẫn còn để trong nhà khuôn cũ.

            4.1.1. Văn bia niên hiệu Khải Định nguyên niên (1916)(18)

            Nguyên văn:

            維 新 四 年 庚 戌 二 月 十 九 日 .盂 蘭 寺 本 譜 員 聀 並 善 信 等 . 恭 聞

            有 善 心 能 行 善 事 開 扵 始 可 继 扵 終 忝 等 法 派 皈 依 頂 称 . 佛 子 窃 念 人 從 樂 土 事 或 赴 公 其 朔 望 頂 香 懸 䀡 節 礼 有 發 心 願 立 . 寺 所 方 便 䀡 誠 前 奉 . 佛 聖 後 祀 先 靈 於 成 泰 十 五 六 等 年 合 私 財 揀 買 土 園 充 物 單 憑 構 造 承 . 省 堂 炤 例 不 許 新 設 乃 仝 應 将 等 項 奉 供 . 御 製 三 台 靈 應 二 寺 敕 賜 僧 綱 阮 慈 智 本 師 . 敕 準 住 持 黎 慈 忍 . 阮 福 智 本 師 . 垂 情 擬 量 仝 單 . 禀 敍 候 承 . 商 許 併 擧 . 三 台 寺 僧 目 范 興 隆 為 住 持 叶 同 忝 等 兼 領 工 作 寺 務 秀 才 胡 仙 峰 相 擇 至 成 泰 十 八 年 丙 午 中 建 維 新 三 年 鑄 大 銅 鐘 嗣 此 像 影 祀 儀 稍 得 贍 用 其 辰 出 財 力 謹 勒 芳 名 以 垂 永 久 云. 計

            太 子 少 保 南 義 總 督 胡 命 婦 武 夫 人 供 二 十 五 元 並 幢 旛 四 幅

            十 方 善 信 供 共 銀 壹 百 元 零. 化 閨 平 順 村 供 十 元

            啓 定 元 年 秋 諸 譜 員 聀 並 善 信 誠 心 出 財 力 重 修 增 造 誌 .本 譜 仝 録 誌

            Phiên âm:

            Duy Tân tứ niên, Canh Tuất, nhị nguyệt, thập cửu nhật. Vu Lan tự bổn phả viên chức tịnh thiện tín đẳng.

            Cung văn.

            Hữu thiện tâm năng hành thiện sự, khai ư thủy khả kế ư chung thiểm đẳng pháp phái quy y đính xưng. Phật tử thiết niệm nhân tùng Lạc độ sự hoặc phó công kỳ sóc vọng đính hương huyền chiêm tiết lễ hữu phát tâm nguyện lập. Tự sở phương tiện chiêm thành tiền phụng. Phật Thánh hậu tế Tiên linh ư Thành Thái thập ngũ, lục đẳng niên hợp tư tài giản mãi thổ viên sung vật đan bằng cấu tạo thừa. Tỉnh đường chiêu lệ bất tháo tân thiết nãi đồng ứng tương đẳng hạng phụng cúng. Ngự chế Tam Thai – Linh Ứng nhị tự Sắc tứ Tăng Cang: Nguyễn Từ Trí Bổn sư, Sắc chuẩn trụ trì: Lê Từ Nhẫn, Nguyễn Phước Trí Bổn sư. Thùy tình nghĩ lượng đồng đơn. Bẩm tự hậu thừa. Thương hổ tính cử. Tam Thai tự Tăng Mục Phạm Hưng Long vi trụ trì hiệp đồng thiểm đẳng kiêm lãnh công tác tự vụ, tú tài Hồ Tiên Phong tương trạch chí Thành Thái thập bát niên, Bính Ngọ trung kiến, Duy Tân tam niên chú đại hồng chung tự thử tượng ảnh, tự nghi sao đắc thiệm dụng kỳ thìn xuất tài lực cẩn lặc phương danh dĩ thùy vĩnh cửu vân. Kê.

            Thái tử thiếu bảo Nam – Ngãi Tổng đốc Hồ mạng, phụ Võ phu nhân cúng nhị thập ngũ nguyên tịnh tràng phan tứ bức.

            Thập phương thiện tín cúng cộng ngân nhất bách nguyên linh. Hóa Khuê, Bình Thuận thôn cúng thập nguyên.

            Khải Định nguyên niên thu, chư phả viên chức tịnh thiện tín thành tâm xuất tài lực trùng tu, tăng tạo chí. Bổn phả đồng lục chí.

            Dịch nghĩa:

            “Ngày 19 tháng 2 năm Canh Tuất, Duy Tân năm thứ 4. Bổn phả, viên chức cùng thiện tín chùa Vu Lan.             Cung kính nói rằng:

            Nếu có tâm thiện, biết làm việc thiện từ đầu đến cuối cùng, xưng tán pháp phái kính lễ quy y.

            Phật tử thiết niệm cho người đi về Lạc Bang hoặc đến các ngày mồng 1, rằm, dâng hương, viếng lễ Tết, lại phát tâm nguyện lập. Chùa là nơi bày mở phương tiện tín thờ, Phật Thánh rồi sau cúng Tiên linh, vào các năm Thành Thái thứ 15, 16 cùng lấy tiền tư chọn mua mảnh vườn làm vật ít ỏi để xây dựng nơi nương tựa kế thừa. Tỉnh đường xét theo lệ đồng ý rồi sắp đặt, bèn cùng thưa sẽ phụng cúng đầy đủ. Ngự chế 2 chùa Tam Thai – Linh Ứng Sắc tứ Tăng cang Bổn sư Nguyễn Từ Trí. Sắc chuẩn trụ trì Lê Từ Nhẫn, Bổn sư Nguyễn Phước Trí cùng rũ lòng định đoạt giao đơn. Vâng sự xem xét. Bàn bạc chấp thuận cho Tăng Mục chùa Tam Thai là Phạm Hưng Long làm trụ trì cùng hợp lực kiêm nhận công việc chùa, tú tài Hồ Tiên Phong phụ trợ, đến giữa năm Bính Ngọ (niên hiệu Thành Thái thứ 18- 1907) thì xây dựng, năm Duy Tân thứ 3(1910), đúc Đại Hồng Chung và tượng, thực hiện các nghi tế lễ để cho đầy đủ, bỏ ra tài lực để cẩn chạm phương danh lưu lại vĩnh cửu.

            Ngài Thái Tử Thiếu Bảo tổng đốc Nam Ngãi họ Hồ cùng bà phu nhân họ Võ cúng 25 đồng tương đương 4 bức tràng phan.

            Thập phương thiện tín cùng góp cúng 100 đồng bạc lẻ. Thôn Hóa Khuê, Bình Thuận cúng 10 đồng.

            Mùa thu Khải Định nguyên niên(1916), chư viên chức cùng thiện tín thành tâm bỏ hết tài lực để trùng hưng và tôn tạo . Bổn phả cùng ghi chép”.

            4.1.2. Hai văn bia niên hiệu Bảo Đại tam niên (1928)(19) [35*45cm]

            Văn bia 1, Nguyên văn:

            保 大 三 年 戌 辰 秋. 盂 蘭 寺 寺 長 叶 本 譜 等. 葢 聞

            開 来 继 往 後 先 均 出 於 眞 誠 大 道 法 門 踐 履 尤 期 於 篤 寔. 本 寺 营 造 正 殿 前 堂 碑 楼 東 舍 並 淂 雅 观 惟 三 關 心 猶 掛 慮

            寺 譜 中 范 貴 臺 合 妻 心 誠 發 願 財 力 需 行 令 見 内 外 装 完 表 表 在 人 眼 目 叶 應 石 勒 芳 名 垂 後 庶 望 将 来 之 餘 地 歩 也 . 謹 誌 . 計

            濰 川 縣 美 溪 總 茶 饒 社 南 村 精 兵 正 率 隊 范 荣 良 廣 平 省 廣 澤 府 土 臥 社

            正 室 陳 氏 _ (20). 仝 奉 供

            Phiên âm:

            Bảo Đại tam niên, Mậu Thìn thu. Vu Lan tự Tự trưởng hiệp bổn phả đẳng. Cái văn.

            Khai lai kế vãng hậu, tiên vận xuất ư chân thành đại đạo Pháp Môn, tiễn lý vưu ư đốc thiệt. Bổn tự doanh tạo chánh điện, tiền đường, bi lâu, đông xá tịnh đắc nhã quan duy tam quan tâm do quải lự. Tự phả trung Phạm quý đài hợp thê tâm thành phát nguyện tài lực nhu hành linh kiến nội ngoại trang hoàn biểu biểu tại nhân nhãn mục hiệp ứng thạch lặc phương danh thùy hậu thứ vọng tương lai chi dư địa bộ giã. Cẩn chí. Kê.

            Duy Xuyên huyện, Mỹ Khê tổng, Trà Nhiêu xã, Nam thôn, tinh binh chánh luật đội Phạm Vinh Lương, Quảng Bình tỉnh, Quảng Trạch phủ, Thổ Ngọa xã.

            Dịch nghĩa:

            Niên hiệu Bảo Đại thứ 3, mùa thu năm Mậu Thìn (1928). Tự Trưởng chùa Vu Lan cùng bổn phả cung kính nói rằng:

            “Nối tiếp từ trước đến sau, đầu tiên cần tất cả sự chân thành khi vào cửa Pháp, rũ bỏ những oán hờn, kỳ hẹn dốc lòng tại đây. Bổn tự xây Chánh điện, tiền đường, nhà bia, đông xá, cảnh quan nhưng vẫn còn tam quan đang được quan tâm. Chùa được Phạm quý đài và vợ thành tâm phát nguyện tài lực vận chuyển các đồ dùng bắt mắt, trang phục ngoài trong đủ đầy để hiển dương ở các mục chính yếu vào bia, chạm phương danh để mọi người về sau tưởng nhớ đến những bước chân đã để lại trên mảnh đất này vậy.Cẩn trọng ghi chép, kê lại.

            Huyện Duy Xuyên, tổng Mỹ Khê, xã Trà Nhiêu(21), thôn Nam. Lãnh đạo tinh binh Phạm Vinh Lương tỉnh Quảng Bình, phủ Quảng Trạch, xã Thổ Ngọa(22).

            Chánh thất Trần Thị Nhớn. Đồng phụng cúng”.

            Nguyên văn:

            保 大 三 年 戌 辰 秋. 盂 蘭 寺 寺 長 本 譜 等

            佛 法 本 無 私 大 地 欽 崇 南 以 北. 聖 恩 垂 永 逺 普 天 奉 仰 古 来 今.本 寺 創 造 至 茲 前 堂 正 殿 碑 楼 各 成 壯 麗 其 僧 家 東 堂 尚 見 草 茅 惟 恐 經 年 腐 漏 適 有 精 兵 正 率 隊 范 荣 良 並. 本 譜 心 誠 勸 助 力 敏 經 營 東 堂 特 出 人 天 限目所有. 十 方 貴 臺 宝 號 署 供 恭 録 姓 名 序 銘 子 石 是 為 誌. 恭 録

            北 圻 河 内 宣 光 省 十 方 供 銀 壹 百 五 拾 元

            高 綿 省 榤 接 府 十 方 供 淂 銀 貳 百 叁 拾 柒 元. 謹 誌

            Phiên âm:

            Bảo Đại tam niên, Mậu Thìn thu. Vu Lan tự Tự trưởng bổn phả đẳng.

            Phật Pháp bổn vô tư đại địa khâm sùng Nam dĩ Bắc. Thánh ân thùy vĩnh viễn phổ thiên phụng ngưỡng cổ lai kim. Bổn tự sang tạo chí tư tiền đường, chánh điện, bi lâu, danh thành tráng lệ kỳ tăng gia đông đường thượng kiến thảo mao duy khủng kinh niên hủ lậu thích hữu tinh binh chánh luật đội Phạm Vinh Lương tịnh. Bổn phả tâm thành, khuyến trợ lực mẫn kinh doanh đông đường đặc xuất nhân thiên hạn mục sở hữu. Thập phương quý đài, bảo hiệu thự cúng cung lục tánh danh tự minh tử thạch thị vi chí. Cung lục.

            Bắc kỳ Hà Nội, Tuyên Quang tỉnh, thập phương cúng ngân nhất bách ngũ thập nguyên.

            Cao Miên tỉnh(23), Kiệt Tiếp phủ, thập phương cúng đắc ngân nhị bách tam thập thất nguyên. Cẩn chí.

            Dịch nghĩa:

            Niên hiệu Bảo Đại thứ 3, mùa thu năm Mậu Thìn (1928). Tự Trưởng chùa Vu Lan cùng bổn phả:

            “Phật Pháp vốn không riêng, tất cả đều kính ngưỡng từ Nam đến Bắc. Thánh ân rũ lòng rộng khắp cõi trời được tôn thờ từ trước đến nay. Bổn tự trước tiên tạo tiền đường, chánh điện, nhà bia danh thành tráng lệ, Đông đường của chư tăng vẫn còn lợp lá, sợ bao năm, bị mục, dột nát, nay dễ chịu khi có Lãnh đạo tinh binh Phạm Vinh Lương cùng lập. Bổn phả thành tâm khuyến trợ khả năng cần cù việc kinh doanh sản xuất ở Đông đường vào các ngày đặt biệt, sở hữu các hạn mục. Thập phương, quý đài, các hiệu cúng dường được cung lục thứ tự danh tánh vào tấm bia đá nhỏ này để tưởng nhớ. Cung lục.

            Bắc kỳ Hà Nội, tỉnh Tuyên Quang thập phương cúng 155 đồng bạc.

            Tỉnh Cao Miên, phủ Kiệt Tiếp thập phương cúng đúng 237 đồng. Cẩn trọng ghi chép”.

            4.1.3. Văn bia niên hiệu Bảo Đại ngũ niên (1930) [50*60cm]

            Nguyên văn:

            恭 聞

            心 地 芝 蘭 博 得 茗 香 逺 境 福 田 菽 粟 栽 来 慧 種 大 方. 本 寺 合 諸 本 道 等 

            發 心 奉 供 銀 元 造 買 私 田 在 灌 漑 社 東 甲 地 簿 泡 婆 處 田 捌 髙 陸 尺 三 寸 永 置 馬 三 宝 祀 田 其 造 契 立券 支 費 頗 多 所 有 原 銀 合 供 置 祀 碑 誌 芳 名 光 垂 永 久 云. 計 誌

            盂 蘭 譜 供 壹 佰 元 置 千 秋 油 

            本 善 譜 供 壹 百 元 置 常 年 二 月 十 九 日 觀 音 誕

            宏 化 譜 供 四 十 元 置 常 年 四 月 初 八 日 釋 迦 誕

            灌 桃 譜 供 伍 十 元 置 常 年 六 月 二  四 日 聖 誕 

            護 員 阮 桐 合 配 范 氏 安 供 五 十 元 置 香 油. 置 祀 以 下

            仝 門 供 壹 佰 元 置 祀 陳 先 生 七 月 初 五 日 正 忌

            陳 氏 標 供 叁 元. 陳 氏 整 供 伍 十 元. 武 氏 安 供 五 十 元

            荼 如 財 供 五 十 元. 李 貴 添 供 叁 十 元. 總 共 銀 陸 百 五 十 元

            買 田 五 百 八 十 元 里 簿 証 認   二 十 三 元 扺 座 立 券 三 十 五 元 支 費 十 二 元

            保 大 五 年 庚 午 中 秋. 盂 蘭 寺 住 持 號 尊 保 奉 立

            Phiên âm:

            Cung văn:

            Tâm địa chi lan bát đắc mính hương viễn cảnh phước điền thục túc tài lai tuệ chủng đại phương. Bổn tự hợp chư bổn đạo. Phát tâm phụng cúng ngân nguyên tạo mãi tư điền tại Quán Khái xã(24), Đông Giáp địa, Bào Bà xứ, điền bát cao lục xích tam thốn, vĩnh trí mã Tam Bảo tự điền kỳ tạo khế lập khoán chi phí phả đa sở hữu nguyên ngân hợp cúng trí tự bi chí phương danh quang thùy vĩnh cửu vân. Kê chí:

            Vu Lan phả cúng nhất bách nguyên trí Thiên Thu du.

            Bổn Thiện phả cúng nhất bách nguyên trí thường niên nhị nguyệt, thập cửu nhật, Quan Âm đản.

            Hoằng Hóa phả cúng tứ thập nguyên trí thường niên tứ nguyệt, sơ bát nhật, Thích Ca đản(25).

            Quán Đào phả cúng ngũ thập nguyên trí thường niên lục nguyệt, nhị tứ nhật, Thánh đản(26).

            Hộ viên Nguyễn Đồng hợp phối Phạm Thị An cúng ngũ thập nguyên trí hương du. Trí tự dĩ hạ.

            Đồng môn cúng nhất bách nguyên trí tự Trần Tiên sinh, thất nguyệt, sơ ngũ nhật chánh kỵ.

            Trần Thị Tiêu cúng tam nguyên. Trần Thị Chỉnh cúng ngũ thập nguyên. Võ Thị An cũng ngũ thập nguyên

            Đồ Như Tài cúng ngũ thập nguyên. Lý Quý Thiêm cúng tam thập nguyên. Tổng cộng ngân lục bách ngũ thập nguyên.

            Mãi tư ngũ bách bát thập nguyên, lý bạ chứng nhận nhị thập tam nguyên, chỉ tòa lập khoán tam thập ngũ nguyên, chi phí thập nhị nguyên.

            Bảo Đại ngũ niên, Canh Ngọ, trung thu. Vu Lan tự trụ trì hiệu Tôn Bảo phụng lập.

            Dịch nghĩa:

            Cung kính nói rằng:

            “Tâm địa cao thượng như hương thơm của đọt non lan xa tận những đồng ruộng phúc, lúa đậu được trồng lên những mầm trí tuệ rộng lớn. Bổn tự hợp cùng chư bổn đạo.

            Phát tâm cúng tiền bạc để mua ruộng tư tại xã Quán Khái, khu vực Đông Giáp, xứ Bào Bà, 8 mẫu (6 thước 3 tấc) thiết trí cúng lễ lớn lâu dài cho Tam Bảo bằng mẫu ruộng ấy bên khế ước, chi phí hợp cúng tiền, thiết trí lễ tế nay viết phương danh vào bia để lưu lại vĩnh cửu.

            Xét viết rằng:

            Vu Lan phả cúng 100 đồng mua dầu Thiên Thu.

            Bổn Thiện phả cúng 100 đồng hằng năm để thiết trí ngày Quan Âm Đản (ngày 19 tháng 2 ).

            Hoằng Hóa phả cúng 40 đồng hằng năm thiết trí ngày Thích Ca Đản (ngày 8 tháng 4 ).

            Quán Đào phả cúng 50 đồng hằng năm thiết trí ngày Thánh Đản (ngày 24 tháng 6 ).

            Hộ viên Nguyễn Đồng cùng vợ Phạm Thị An cúng 50 đồng mua hương dầu. Trí linh về sau.

            Đồng môn cúng 100 đồng thiết trí lễ tế ngày kỵ chính của Trần tiên sinh (ngày 5 tháng 7).

            Trần Thị Tiêu cúng 30 đồng. Trần Thị Chỉnh cúng 50 đồng. Võ Thị An cúng 50 đồng.

            Đồ Như Tài cúng 50 đồng. Lý Quý Thiêm cúng 30 đồng. Tổng cộng là 650 đồng bạc.

            Mua ruộng là 580 đồng, chứng nhận lý bạ 23 đồng, xuống tòa làm khoán 35 đồng, chi phí là 12 đồng.

            Niên hiệu Bảo Đại thứ 5, Trung Thu năm Canh Ngọ. Trụ trì chùa Vu Lan hiệu Tôn Bảo phụng lập”.

            4.2. Hoành phi, liễn đối

            – Hoành phi trước 1945:

            Trước 1945, chùa có đến tất cả 7 tấm hoành phi đều dùng thể chữ hành, lệ, chân là chủ yếu.

            Bức 1. Nguyên văn:

                 盂 蘭 寺

            成 泰 十 八 年

            Phiên âm: Vu Lan Tự

            Thành Thái Thập Bát Niên

            Dịch nghĩa: Chùa Vu Lan

            Thành Thái năm thứ 18

            Nguyên trước đây trên cổng cổ Tổ đình Vu Lan có một tấm biển bằng đá khắc tên chùa và có niên đại xưa nhất vào đời Thành Thái thứ 18 (1907) nay không còn vì cổng đã triệt hạ, trùng tu thành cổng mới vào năm 1995.

            Bức 2. Nguyên văn:

            福 来 成

            保 大 三 年 孟 冬

            御 製 三 台 寺 僧 綱 福 智 和 尚

            住 持 尊 勝 . 寺 長 覺 悟 . 居 士 心 悟 . 僧 目 尊 元 . 仝 賀

            Phiên âm: Phước Lai Thành

            Bảo Đại tam niên mạnh đông

            Ngự Chế Tam Thai tự Tăng cang Phước Trí Hòa Thượng(27).

            Trụ trì Tôn Thắng(28), Tự Trưởng Giác Ngộ(29), Cư sỹ Tâm Ngộ(30), Tăng Mục Tôn Nguyên(31). Đồng hạ.

            Dịch nghĩa: Phước đến tự nhiên thành

            Mạnh Đông năm Bảo Đại thứ 3, Mậu Thìn (1928)

            Tăng cang chùa Ngự chế Tam Thai Hòa thượng Phước Trí

            Trụ trì Tôn Thắng, Tự trưởng Giác Ngộ, Cư sĩ Tâm Ngộ, Tăng mục Tôn Nguyên

            Cùng khánh chúc.

            Bức này viết theo chữ chân phương với đường nét dứt khoát nhưng lại mềm mại, được khắc vào đầu mùa đông, tháng 10 năm Mậu Thìn (1928), sau khi chùa Vu Lan được trùng tu vừa xong. Bức này nay được tôn trí phía ngoài chánh điện.

            Bức 3: Nguyên văn:

            行 仁 義 事

            保 大 五 年 冬

            Phiên âm: Hành Nhân Nghĩa Sự

            Bảo Đại ngũ niên đông

            Dịch nghĩa: Làm việc nhân nghĩa

            Mùa đông năm Bảo Đại thứ 5 (1930)

            Bức 4: Nguyên văn:

            存 忠 孝 心

            保 大 五 年 冬

            Phiên âm: Tồn Trung Hiếu Tâm

            Bảo Đại ngũ niên đông

            Dịch nghĩa: Giữ Tâm Trung Hiếu

            Mùa đông năm Bảo Đại thứ 5 (1930)

            Cả hai tấm này được viết theo lối chữ lệ và chỉ có một dòng lạc khoảng “Bảo Đại ngũ niên đông” tức mùa đông năm Bảo Đại thứ 5 (1930). Ngoài ra, không có nội dung khác, có lẽ đây là hai tấm do Hòa thượng Tôn Bảo lập nên vậy. Hai bức này hàm ý nói lên tính nhân nghĩa và đạo hiếu của con người. Hai tấm được bao quanh bởi cặp giao long chầu nhật. Hiện nay, do quá xuống cấp nên nó đã bị sơn phết lại.

            Bức 5: Nguyên văn:

            人 能 道 潤

            保 大 七 年 夏

            敕 賜

            龍 泉 寺 住 持 普 瑞 . 祝 聖 寺 住 持 善 果 . 福 林 寺 住 持 宝 樹 . 祥 光 寺 住 持 興 安 .

            仝賀

            Phiên âm: Nhân Năng Đạo Nhuận

            Bảo Đại thất niên hạ

            Sắc tứ Long Tuyền tự trụ trì Phổ Thoại(32), Chúc Thánh tự trụ trì Thiện Quả(33), Phước Lâm tự trụ trì Bảo Thọ(34), Tường Quang tự trụ trì Hưng An(35). Đồng hạ.

            Dịch nghĩa: Người Làm Cho Đạo Thắm Nhuận

            Mùa hạ năm Bảo Đại thứ 7 (1932)

            Trụ trì chùa Sắc tứ Long Tuyền hiệu Phổ Thoại. Trụ trì chùa Sắc tứ Chúc Thánh hiệu Thiện Quả, Trụ trì chùa Sắc tứ Phước Lâm hiệu Bảo Thọ, Trụ trì chùa Sắc tứ Tường Quang hiệu Hưng An, cùng khánh chúc.

            Tấm này được viết theo lối hành thư, nét chữ cứng tạo xướt rất đẹp, được tạo tác vào mùa hạ năm Bảo Đại thứ 7 (1932). Qua dòng chữ trên bảng cho ta thấy chư tôn trưởng lão tại đất Hội An đã không ngại xa xôi đến dự lễ lạc thành chùa. Trong đó, có Hòa thượng Phổ Thoại, Hòa thượng Thiện Quả, Hòa thượng Bảo Thọ ở Hội An nhưng riêng có thêm ngài Tường Quang – Hòa thượng Hưng An cũng đi chung vậy, cho ta thấy ngày xưa quý ngài không phân biệt môn phái, mà lại rất gắn bó nhau.

            Bức 6: Nguyên văn:

            水 澄 月 印

            保 大 七 年 夏

            御 製 三 台 靈 應 二 寺 住 持 號 福 通 . 號 善 中

            僧 目 . 慧 長 . 慧 幢 . 善 成 . 宝 勝 . 善 果 . 仝 賀

            Phiên âm: Thủy Trừng Nguyệt Ấn

            Bảo Đại thất niên hạ

            Ngự chế Tam Thai Linh Ứng nhị tự trụ trì: hiệu Phước Thông(36), hiệu Thiện Trung(37).

            Tăng mục: Huệ Trưởng(38), Huệ Tràng(39), Thiện Thành(40), Bảo Thắng(41), Thiện Quả(42).

            Đồng hạ.

            Dịch nghĩa: Nước Trong Trăng Hiện

            Mùa hạ năm Bảo Đại thứ 7 (1932)

            Trụ trì hai chùa Ngự chế Tam Thai và Linh Ứng Hòa thượng hiệu Phước Thông và Hòa thượng hiệu Thiện Trung. Tăng mục hiệu Huệ Trưởng, Huệ Tràng, Thiện Thành, Bảo Thắng, Thiện Quả đồng khánh chúc.

            Cũng giống như tấm trên, hai tấm có cùng thể cách và niên đại. Ở đây, chư tôn đức Ngũ Hành sơn đi lễ. Đầu tiên là Hòa thượng trụ trì Quốc tự Tam Thai hiệu Phước Thông, Hòa thượng trụ trì Quốc tự Linh Ứng hiệu Thiện Trung, tiếp theo là chư Tăng mục: Huệ Trưởng, Huệ Tràng, Thiện Thành, Bảo Thắng, Thiện Quả đều là môn hạ Non Nước.

            Bức 7: Nguyên văn:

            恩 霑 梵 宇

            保 大 九 年 歳 次 甲 戌 秋 月 . 欽 蒙

            敕 賜 盂 蘭 寺 . 誌 喜

            僧 本 省 諸 山 官 寺 公 知 寺 僧 綱 住 持

            名 府 縣 . 正 副 撿 僧 . 仝賀

            Phiên âm: Ân Triêm Phạm Vũ

            Bảo Đại cửu niên, Tuế thứ Giáp Tuất thu nguyệt (1934). Khâm mông

            Sắc Tứ Vu Lan Tự chí hỷ(43).

            Bổn tỉnh chư sơn quan tự, công tri tự Tăng cang trụ trì(44).

            Danh phủ huyện, chánh phó kiểm tăng. Đồng hạ.

            Dịch nghĩa: Ân Phạm Vũ Thấm Nhuần

            Mùa thu năm Giáp Tuất (1934), Bảo Đại năm thứ 9, mừng chùa Vu Lan được ban Sắc tứ.

            Trong tỉnh các chùa quan, chùa công chư vị Tăng cang, trụ trì, Chánh phó kiểm Tăng các huyện đồng khánh chúc.

            Trong tất cả các bảng ở Tổ đình thì đây là bảng đánh dấu chùa được ban “Sắc tứ”. Vào năm Quý Dậu (1933), Đức Tăng cang Tôn Bảo xin Sắc tứ. Đến mùa thu năm Bảo Đại thứ 9. Đức Tăng cang Phổ Thoại đại diện cho bản tỉnh chư sơn, các chư vị kiểm tăng các phủ huyện đến chúc mừng chùa Vu Lan được ban Sắc tứ.

            – Hoành phi sau 1945:

            Sau 1945, chùa có 2 tấm hoành phi đều dùng thể chữ lệ.

            – Bức 1: Nguyên văn:

            正 遍 知 海

            佛 歴 二 千 五 百 十 一 年 . 戊 申 孟 春

            越 南 佛 教 統 一 沱 港 市 社 奉 供

            Phiên âm: Chánh Biến Tri Hải

            Phật lịch nhị thiên ngũ bách thập nhất niên. Mậu Thân mạnh xuân

            Việt Nam Phật giáo Thống nhất Đà Nẵng thị xã phụng cúng.

            Dịch nghĩa: Biển Chánh Biến Tri

            Mạnh xuân năm Mậu Thân (1968), Phật lịch 2511.

            Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thị xã Đà Nẵng phụng cúng

            – Bức 2: Nguyên văn:

            紹 隆 三 寳

            佛 歴 二 千 五 百 十 三 年

            盂 蘭 寺 慶 成 之 禮

            廣 南 佛 教 會 同 奉

            Phiên âm: Thiệu long Tam Bảo

            Phật Lịch nhị thiên ngũ bách thập tam niên (1969).

            Vu Lan tự khánh thành chi lễ. Quảng Nam Phật giáo Hội đồng phụng.

            Dịch nghĩa: Làm cho Tam Bảo được rạng rỡ

            Phật lịch 2513, năm 1969

            Mừng chùa Vu Lan khánh thành. Giáo hội Phật giáo Quảng Nam đồng phụng cúng.

            Năm 1969, chùa Vu Lan cử hành lễ lạc thành, GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam phụng cúng cho chùa.

            – Liễn đối:

            三 台 靈 應 開 拓 素 功 成 須 知 福 果 圓 培 萬 古 長 畱 羅 漢 地

            佛 歴 二 千 五 百 十 一 年 . 戊 申 春

            茶 嶺 盂 蘭 重 營 髙 景 仰 信 是 興 隆 尊 寳 千 秋 永 峙 釋 迦 天

            行 山

            三 台 寺 . 住 持 釋 智 覺

            靈 應 寺 . 住 持 釋 香 山 . 奉 供

            Phiên âm:

            Tam Thai Linh Ứng, khai thác tố công thành tu tri phước quả viên bồi vạn cổ trường lưu La Hán địa.

            Phật lịch nhị thiên ngũ bách thập nhất niên. Mậu Thân Xuân

            Trà Lãnh Vu Lan, trùng doanh cao cảnh ngưỡng tín thị Hưng Long Tôn Bảo thiên thu vĩnh trĩ Thích Ca thiên.

            Hành Sơn. Tam Thai tự trụ trì Thích Trí Giác. Linh Ứng tự trụ trì Thích Hương Sơn. Phụng cúng

            Trong năm 1968, Hòa thượng Thích Tôn Bảo được suy tôn vào ngôi vị Thành viên Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng thống GHPGVNTN, nhị vị Thượng tọa Hương Sơn, Trí Giác, trụ trì hai ngôi Quốc tự đã hiến cúng cặp liễn này.

            4.3. Tượng Phật, Bồ Tát…

            Trong các tượng thờ xưa của chùa Vu Lan, hiện nay chỉ còn vỏn vẹn lại con số 4. Tất cả các tượng đều làm bằng đất sét (hay còn gọi là tượng thổ). Theo văn bia năm Khải Định nguyên niên (1916), có lẽ các tượng này được tạo vào năm Duy Tân thứ 3 (1910). Nay chúng tôi xin giới thiệu:

            * Đầu tiên, chúng ta kể đến là tượng Phật Thích Ca, trong tư thế thủ ấn địa xúc. Đặc biệt hơn cả, tôn tượng được tạc xăn tay áo bên hữu, đưa rõ cánh tay với thủ ấn thể hiện sự uy dũng của đấng Đại Giác. Tượng này có lẽ được tạc vào đầu thế kỷ XX, do Tổ khai sơn lập. Thần thái tượng thể hiện sự giao thoa giữa phong kiến và hiện đại. Nhưng lại mang vẻ đẹp chân chất thuần Việt. Nay, Hòa thượng trụ trì đã chú tạo tượng Phật Bổn Sư bằng đồng được tôn trí ở chánh điện vào lễ trùng tu năm 2010. Vì vậy, tôn tượng Bổn sư cổ được đưa vào giảng đường.

            * Tiếp đến là tượng Bồ Tát Địa Tạng, tượng cao khoảng 9 tấc. Tượng mang đậm mỹ thuật phong kiến, nhưng khuôn mặt lại phá vỡ khuôn mẫu các tượng xưa như Tổ đình Chúc Thánh, chùa Hải Tạng… mà mang cho mình một khuôn mặt giống khuôn mẫu người thật, mũi cao, cằm bầu… Tượng được tạc vào đầu TK XX. Nay được tôn trí tại nhà khuôn cũ.

            * Theo các trưởng lão tại chùa, khi xưa chùa còn tượng ngài Hộ pháp, cao khoảng 1m, bằng đất. Nay đã thất lạc.

            * Sau hậu tổ, chùa còn phụng thờ bộ tượng Quan Thánh cùng Quan Bình và Châu Thương cũng bằng đất. Không hiểu sao, hiện nay chỉ còn tượng ngài Quan Thánh và Quan Bình. Nay, các tượng không còn nước sơn cũ mà bị sơn lại.

            4.4. Pháp khí

            Trên tấm bia đá của chùa vào năm Khải Định nguyên niên (1916), có nhắc đến năm Duy Tân thứ 3 (1910) có đúc quả hồng chung(45), nhưng không hiểu lý do vì sao bây giờ chuông không còn. Thay vào đó, hiện giờ quả chuông đang tôn trí là được đúc vào tháng 7 năm Nhâm Thìn (1952 – PL 2515) do Hòa thượng trụ trì Thích Tôn Bảo chú tạo và cư sĩ Trần Ngọc Lan(46) hộ chú, dưới sự chứng minh của Hòa thượng Tăng cang hiệu Thiện Quả. Đặc biệt, trên chuông có khắc nguyên văn nội dung của chuông cũ. Nguyên văn như sau:

            “Nguyên Duy Tân tam niên, Kỷ Dậu, lục nguyệt, cát nhật

            Ngự Chế Tam Thai Linh Ứng nhị tự Sắc Tứ Tăng Cang hiệu Từ Trí chứng minh.

            Vu Lan tự trụ trì hiệu Hưng Long chú tạo

            Bình Thuận thôn, tịnh thập phương bổn đạo thiện tín đẳng

            Ngô Văn Vân, Huỳnh Văn Đoan, Nguyễn Thái, Lê Thiện Hoàng Hoán. Đồng hộ chú.

            Trọng nhị bách ngũ thập cân”.

            Qua đó cho ta thấy, trên chuông cũ vẫn còn có dấu tích của Tổ khai sơn, được đặt dưới sự chứng tri của Đức Tăng cang Từ Trí cũng là bổn sư của ngài. Với trọng lượng hơn 200 cân cho ta thấy quả chuông này rất lớn và có giá trị lịch sử.

            Theo Hòa thượng trụ trì, chùa Vu Lan còn cho 1 quả chuông gia trì xưa khắc chữ nổi, hiện nay do một vị đại đức đang cất giữ, chúng tôi chưa thể tiếp cận quả chuông này vì ngài đang hoằng hóa ở ngoại quốc. Và thật tình cờ, chúng tôi cũng mới phát hiện cũng có một quả chuông gia trì tôn trí tại tổ đường có niên đại trễ hơn do HT Tôn Bảo chú tạo mà không ai hay biết. Trên vành chuông khắc: “Nhâm Thìn niên, thất ngoạt, cát nhật, Vu Lan tự trụ trì hiệu Tôn Bảo chú tạo” (Chuông được trụ trì hiệu Tôn Bảo đúc vào ngày tốt, tháng 7, năm Nhâm Thìn – 1952).

            4.5. Long vị

            Trong tất cả các cổ vật của Tổ đình Vu Lan, độc nhất một long vị bằng đồng mạ bạc của Tổ khai sơn, có lẽ đây là long vị độc lạ nhất và xưa nhất. Chứng tỏ ngày xưa, Hòa thượng là một vị rất có tiếng vậy.

            Ngoài long vị Tổ khai sơn còn có long vị cổ của Hòa thượng Tăng cang Phước Trí được cung thỉnh từ chùa Sắc tứ An Hội tại Huế (2008)(47) và long vị Hòa Thượng đệ nhị trụ trì Thích Tôn Bảo. Sau đây chúng tôi xin sao lục lại nội dung của 3 long vị đó:

            1. Long vị Hòa thượng Hưng Long:

            開 山 盂 蘭 寺 住 持 四 十 世 諱 眞 蠲 字 道 吉 號 興 隆 阿 闍 梨

            (十 一 月 初 六 日 圓 寂 )

            Khai sơn Vu Lan tự trụ trì tứ thập thế húy Chơn Quyên tự Đạo Cát hiệu Hưng Long A Xà Lê (thập nhất nguyệt, sơ lục nhật viên tịch)].

            2. Long vị Hòa thượng Phước Trí:

            嗣 臨 濟 四 十 世 御 製 三 台 靈 應 二 寺 僧 綱 重 建 安 會 寺 諱 上 眞 下 法 號 福 智 和 尚 覺 靈 蓮 座

            Tự Lâm Tế tứ thập thế Ngự Chế Tam Thai Linh Ứng nhị tự Tăng cang, trùng kiến An Hội tự húy thượng Chơn hạ Pháp hiệu Phước Trí Hòa thượng giác linh liên tọa.

            3. Long vị Hòa thượng Tôn Bảo:

            敕 賜 盂 蘭 寺 住 持 四 十 世 諱 眞 佐 字 道 化 號 尊 保 覺 灵 宝 座

            Sắc Tứ Vu Lan tự trụ trì tứ thập thế húy Chơn Tá tự Đạo Hóa hiệu Tôn Bảo giác linh bảo tọa.

            4.6. Mộc bản, phái quy y, pháp quyển…

            Chúng ta được biết rằng, từ Đức Thích Ca ở Ấn Độ cho đến Lục Tổ Huệ Năng ở Trung Hoa, các ngài lấy y bát làm tín vật để lại hậu thế. Sau này, vì muốn cho hàng chúng sanh quy y Phật pháp, các Tổ đã phương tiện, dùng độ điệp, pháp quyển để truyền trao giới pháp. Theo tôn chỉ này, đầu thế kỷ XX, trong việc hoằng hóa tại đất Hòa Thuận, Hòa thượng trụ trì đã tiến hành khắc mộc bản pháp phái để dễ tiện bề lưu thông cùng Phật tử. Sau đó ngài đã truyền pháp quyển, thế độ cho hàng đệ tử xuất gia. Hiện chùa còn lưu 1 ván khắc phái quy y và 1 pháp quyển.

            4.6.1. Mộc bản Pháp phái Quy y(48)

            Mộc bản được khắc vào khoảng thập niên 30-40 của thế kỷ XX, sau khi kế vị Hòa thượng Phạm Hưng Long, Hòa thượng Thích Tôn Bảo lập(49) để thế độ hay truyền giới cho các đệ tử tại gia hay xuất gia. Đường nét chạm trổ rất tinh xảo, với khung viền chung quanh là hoa văn liên hoàn chữ vạn, kèm theo 34 chữ Phạn nối tiếp nhau. Bên trong có 4 chữ chính là: “Lâm Tế Chánh Tông” và 8 câu truyền kệ của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh:

            “Minh Thiệt Pháp Toàn Chương. Ấn Chơn Như Thị Đồng.

            Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu. Kỳ Phước(50) Tộ Địa Trường.

            Đắc Chánh Luật Vi Tuyên(51). Tổ Đạo Giải Hạnh Thông.

            Giác Hoa Bồ Đề Thọ. Sung Mãn Nhân Thiên Trung”.

            4.6.2. Chánh Pháp Nhãn Tạng(52)

            Thông thường, “Pháp Quyển” chúng ta hay còn gọi là “Chánh Pháp Nhãn Tạng”. Đây và văn bản mà vị Bổn sư ban pháp hiệu cho vị đệ tử sau khi thọ Cụ túc, nhưng có thể đặc cách cho đệ tử mới giới phẩm Sa di mà tinh thông vượt bậc. Nhờ có pháp quyển, chúng ta biết được sự truyền thừa từ Đức Thỉ Tổ Thích Ca xuống 28 vị Tổ Tây Trúc, 6 Tổ Trung Hoa,… rồi đến các tổ ở Việt Nam. Sau khi khái lược lịch đại Tổ sư, vị Bổn sư truyền kệ phú pháp để cho đệ tử nương theo đó mà tu học. Đa phần các chùa miền Trung đều khắc ván lưu thông, cũng có số ít thì viết tay nên các thể loại này rất phong phú, đa dạng. Bản pháp quyển này được viết tay, được Hòa thượng Thích Tôn Bảo truyền cho pháp tử Thích Như Thọ vào ngày Phật Đản năm Tân Hợi (1971). Nay, chúng tôi xin trình bày nội dung từ Tổ Nguyên Thiều – Siêu Bạch trở đi:

            “Đệ tam thập tam thế húy Siêu Bạch, thượng Hoán hạ Bích, hiệu Thọ Tôn Hòa thượng(53).

            Đệ tam thập tứ thế húy thượng Minh hạ Hải, tự Đắc Trí, hiệu Pháp Bảo Hòa thượng.

            Đệ tam thập ngũ thế húy Thiệt Dinh, thượng Chánh hạ Hiển, hiệu Ân Triêm Hòa thượng.

            Đệ tam thập lục thế húy Pháp Ấn, thượng Tường hạ Quang, hiệu Quảng Độ Hòa thượng(54).

            Đệ tam thập lục thế húy Pháp Kiêm, thượng Luật hạ Oai, hiệu Minh Giác Hòa thượng.

            Đệ tam thập thất thế húy Toàn Nhâm, thượng Vi hạ Ý, hiệu Quán Thông Hòa thượng.

            Đệ tam thập bát thế húy Chương Tư, thượng Tuyên hạ Văn, hiệu Huệ Quang Hòa thượng.

            Đệ tam thập cửu thế húy Ấn Bổn, thượng Tổ hạ Nguyên, hiệu Vĩnh Gia Hòa thượng.

            Đệ tam thập cửu thế húy Ấn Bính, thượng Tổ hạ Thuận, hiệu Phổ Bảo Hòa thượng.

            Đệ tứ thập thế húy thượng Chơn hạ Chứng, tự Đạo Tâm, hiệu Thiện Quả Hòa thượng(55).

            Đệ tứ thập thế húy thượng Chơn hạ Tá, tự Đạo Hóa, hiệu Tôn Bảo Hòa thượng”.

            Đồng thời, Hòa thượng Thích Tôn Bảo phú pháp như sau:

            “Pháp pháp bổn lai pháp.

            Pháp pháp nhữ tâm trung.

            Bổn tánh vô thị hỏa.

            Tham cứu tử tế tầm”(56).

            Cuối cùng là hàng chữ: “Sắc tứ Vu Lan tự Pháp phái”, cho chúng ta thấy rõ hơn về sự truyền thừa của chùa. Pháp quyển được đóng tất cả loại triện từ vuông cho đến tròn làm cho văn bản càng thêm giá trị.

            Qua tất cả các di sản trên, chúng ta mới cảm nhận được sự khó khăn truyền đạo của Lịch đại Tổ sư. Có như vậy, chúng ta phải biết trân trọng, biết đền đáp công ơn giáo dưỡng sâu dày của quý Ngài.

            5. Tầm ảnh hưởng và đóng góp của chùa Vu Lan cho sự phát triển của Phật giáo Đà Nẵng và Thiền phái Chúc Thánh

            5.1. Đối với Phật giáo Đà Nẵng

            Trải dài hơn một thế kỷ, qua bao cảnh biến thiên của lịch sử, Tổ đình Vu Lan đã đồng hành cùng với bước chân phát triển của Phật giáo tại vùng đất Đà Nẵng. Bên cạnh các chùa Phổ Đà, chùa Tỉnh Hội,… Tổ đình Vu Lan đóng góp một vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo Tăng tài, tổ chức các kỳ Bố tát, An cư tự tứ… Đặc biệt, chính nơi đây, Tạp chí Tam Bảo – một trong những cơ quan ngôn luận Phật giáo đầu tiên tại Trung Kỳ được bảo trợ bởi HT Tôn Bảo. Sở dĩ có như vậy, chúng ta phải kể đến công ơn lớn lao của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Tôn Bảo, một vị lãnh tụ tinh thần tối cao của Phật giáo Đà Nẵng vậy. Ngài đã hy hiến cuộc đời mình cho Phong trào chấn hưng Phật giáo, thắp lên ánh đuốc hùng thiên cho thời kỳ Pháp nạn – 1963 tại Quảng Nam – Đà Nẵng.

            Trước năm 1975, Tăng ni tại Đà Nẵng đều vân tập về chốn tổ Vu Lan để thành lập đạo tràng An cư kiết hạ. Trong đạo tràng này, dưới sự chứng minh của Hòa thượng Thích Tôn Bảo, đã quy tụ biết bao danh Tăng, sau này là các bậc mô phạm, phát huy ngôi nhà Đạo pháp như Hòa thượng Thích Hương Sơn, Hòa thượng Thích Trí Giác, Hòa thượng Thích Quang Thể, Hòa thượng Thích Như Khương, Hòa thượng Thích Như Thọ, Hòa thượng Thích Bổn Đạt…

            Năm 1974, Hòa thượng Thích Tôn Bảo viên tịch, từ đó chốn già lam Vu Lan theo đó cũng dần trôi nổi trên vòng chảy vô thường. Nhưng nhờ có sự quan tâm của nhị vị Hòa thượng Thích Như Thọ, Thích Như Nghĩa, các ngài đã ra sức phát khởi tùng lâm Vu Lan, thiết lập lại các đạo tràng An cư lớn mạnh theo đúng tinh thần của Phật dạy, xây dựng Phật giáo Đà Nẵng ngày càng phát triển.

            5.2. Đối với Tông môn Chúc Thánh

            Vào đầu thế kỷ XX, ở tại mảnh đất này, thành lập 2 Tổ đình truyền theo dòng thiền Minh Hải – Pháp Bảo, đó là Tổ đình Sắc tứ Vu Lan và Tổ đình Sắc tứ Từ Vân. Cả hai chùa đều thuộc sơn môn của Quốc tự Tam Thai – Linh Ứng, đều có sự liên hệ cùng nhau, có tầm lịch sử quan trọng tương đương nhau.

            Khoảng thập niên 30, chùa Vu Lan cũng có các mối liên hệ mật thiết trong môn phái thông qua tổ chức của Bản tỉnh Chư sơn hội do ngài Tăng cang Phổ Thoại lập. Các ngài khi đó nhằm mục đích chấn chỉnh Thanh quy, làm tiền đề cho phong trào Chấn hưng Phật giáo. Khi đó Hòa thượng Tôn Bảo được sung vào chức Phó Tri sự Chư sơn Quảng Nam kiêm kiểm Tăng huyện Hòa Vang.

            Đến khoảng thập niên 60 – 70, Hòa thượng Thích Tôn Bảo cùng chư tôn đức trong sơn môn tại Hội An, tổ chức các Giới đàn tại Phật Học Viện Long Tuyền. Đa phần, Ngài đều thỉnh cử làm Đường Đầu truyền giới tôn sư.

            Từ sau năm 1975, chùa Từ Vân không còn nữa. Do vậy, chùa Vu Lan đã trở thành nơi quy ngưỡng của Chư tôn đức Lâm Tế Chúc Thánh QN-ĐN khi đến các ngày lễ húy nhật, hiệp kỵ hay họp hội môn phái. Mỗi năm, vào ngày húy nhật Hòa thượng Thích Tôn Bảo 27/10 âm lịch, Tăng ni các nơi về Tổ đình Vu Lan để họp bàn, đóng góp cho môn phái, từ đó thực hiện những kế hoạch trong các năm tới.

            Suốt hơn 100 năm qua, Tổ đình đã duy trì, phát triển theo thời gian. Đó quả thật là sự thành công lớn trong việc truyền thừa mạng mạch của chư Tổ.

            6. Tóm kết

            Trong lịch sử hình thành và phát triển của Thiền phái Chúc Thánh tại Đà Nẵng, ngoài hai ngôi quốc tự Tam Thai và Linh Ứng thì Sắc tứ Vu Lan tự là ngôi tổ đình thứ 3 tại vùng đất này. Trải qua 100 năm lịch sử hình thành và phát triển, chùa Vu Lan cũng có lúc thịnh lúc suy theo thế sự thăng trầm. Tuy nhiên, công hạnh của lịch đại trụ trì của chốn tổ đình được in đậm trong tâm khảm của người con Phật nơi đất Đà thành. Qua một vài tư liệu ít ỏi, chúng tôi kính xin xưng tán công hạnh của các bậc tiền nhân đã có công kiến thiết, hưng long một thời. Mong rằng Tổ đình Vu Lan luôn mãi hưng long như tâm nguyện chư tổ đã một lòng dựng xây Đạo pháp.

                                                                                                                  Đà thành, Mùa Vu Lan, PL 2564.

 

 

 

            – Chú thích

  1. Thời chánh phủ VNCH, chùa nằm trên đường Võ Tánh, nay là 84 Núi Thành, phường Hòa Thuận Đông, quận Hải Châu.
  2. Hòa thượng Ấn Lan – Tổ Huệ – Từ Trí ( Tam Thai – Linh Ứng nhị tự Tăng Cang) là bổn sư thế độ của Hòa thượng Hưng Long.
  3. Do ngài viên tịch trước năm 1930, nên chúng tôi không ghi chữ Thích mà thay vào là tộc tánh của Ngài để dễ xưng hô.
  4. Quả chuông này có lẽ bị mất cắp hoặc hư hoại. Chỉ còn nguyên văn bài minh chuông cũ trên quả chuông mới đúc năm 1952.
  5. Theo bia Bảo Đại thứ 3 (1928) có đoạn: “… 本 寺 营 造 正 殿 前 堂 碑 楼 東 舍 並 淂 雅 观 惟 三 關 心 猶 掛 慮…” (… Bổn tự doanh tạo chánh điện, tiền đường, bi lâu, đông xá tịnh đắc nhã quan duy tam quan tâm do quải lự…).
  6. Tuyên Quang, Hà Nội, Cao Miên, Quảng Bình,…
  7. Bia Bảo Đại thứ 5 (1930) do Hòa thượng Tôn Bảo lập.
  8. Căn cứ tấm biển “Ân triêm Phạm tự” do Hòa thượng Phổ Thoại cùng chư sơn khánh chúc cho chùa Vu Lan được ban Sắc tứ (1934).
  9. Chuông đúc năm 1952 với Phật Lịch 2515, nếu tính theo 624 TCN thì năm đó phải là 1971 thì vô lý vì Hòa thượng Thiện Quả mất năm 1962 . Nếu tính theo Phật Lịch 544 TCN và ứng với năm Nhâm Thìn thì là năm 1952 là hợp lý nhất.
  10. Hòa thượng trưởng tử Thích Như Mãn kế vị nhưng ngài bận Phật sự phương xa nên đã ủy thác cho pháp đệ Như Nghĩa.
  11. Các vị Hòa thượng viên tịch sau 1930, chúng tôi đều lấy họ Thích ghép với tôn hiệu để xưng hô.
  12. Không có tư liệu nào ghi chép về năm sinh của ngài.
  13. Có lẽ lúc ngài ra đi, tông môn lập long vị, chon ngày ra đi của ngài 6/11 để kỵ.
  14. Đàn giới này do Tổ Từ Trí làm đường đầu.
  15. Lịch Sử Ngũ Hành sơn, trang 75, xb năm 1971.
  16. Hòa thượng là trưởng tử của HT Tôn Bảo. Lúc sanh tiền, ngài gia nhập ngành Tuyên úy và Hướng đạo sinh.
  17. Hai tấm bia này 1 tấm không rõ niên hiệu, 1 tấm vào năm Bảo Đại thứ 6 (1931).
  18. Bia có kích thước 1m2 x 45cm, hiện đang được gắn vào phía bên phải hành lang chánh điện.
  19. Bia có kích thước 45cm X 35cm và được gắn vào cổng chùa.
  20. Trần Thị Nhớn (chữ Nhớn có bộ , 13 nét).
  21. Trà Nhiêu bây giờ thuộc xã Duy Vinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
  22. Làng Thổ Ngọa nay thuộc phường Quảng Thuận, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.
  23. Tỉnh Cao Miên nay là Campuchia.
  24. Địa danh Quán Khái hiện nay tọa lạc tại quận Ngũ Hành sơn.
  25. Trước năm 1960, ngày Phật Đản thường lấy theo lịch Ấn Độ là 8/4. Đến năm 1960, Đại hội PG thế giới tại Colombo quyết định chọn ngày 15/4 làm lễ Phật Đản hằng năm.
  26. Thánh đản là ngày lễ vía đức Quan Thánh đế quân (24/6Al).
  27. Hòa thượng Chơn Pháp – Đạo Diệu – Phước Trí (1867-1932) Tăng cang Tam Thai – Linh Ứng. Là y chỉ sư của HT Tôn Bảo.
  28. Hòa thượng Trừng Kệ – Như Nhu – Tôn Thắng (1889-1976). Khai sơn chùa Sắc tứ Phổ Thiên.
  29. Hòa thượng Như Ngộ – Giải Giác – Giác Ngộ (1891-1939). Tọa chủ chùa Sắc tứ An Hội – Huế, đệ tử HT Phước Trí.
  30. Cư sĩ Tâm Ngộ – Phạm Văn Siêu là vị cư sĩ hữu công của PG Đà Nẵng.
  31. Hòa thượng Như Thông- Giải Minh – Tôn Nguyên (?-1946), trụ trì Quốc tự Linh Ứng. Ngài lài bổn sư của Hòa thượng Thích Hương Sơn.
  32. Hòa thượng Ấn Nghiêm – Tổ Thân – Phổ Thoại (1875-1954), khai sơn chùa Sắc tứ Long Tuyền.
  33. Hòa thượng Chơn Chứng – Đạo Tâm – Thiện Quả (1881-1962), Tăng cang chùa Sắc tứ Chúc Thánh.
  34. Hòa Thượng Chơn Chi – Đạo Diệp – Bảo Thọ (1873-1949), trụ trì chùa Sắc tứ Phước Lâm.
  35. Hòa thượng Trừng Phước – Như Xuân – Hưng An, khai sơn chùa Tường Quang.
  36. Hòa tThượng Chơn Đỉnh – Đạo Đạt – Phước Thông (1866-1951), trụ trì Quốc tự Tam Thai, khai sơn Tam Tôn Đường.
  37. Hòa thượng Chơn Phương – Đạo Cân – Thiện Trung (1883-1945), Tăng cang chùa Tam Thai.
  38. Đại sư Huệ Trưởng (?-1938), Giám tự Chùa Tôn Tam. Trưởng tử Hòa thượng Phước Thông.
  39. Hòa thượng Như Hoàn – Giải Trác – Huệ Tràng (1896-1966), trụ trì Quốc tự Tam Thai và chùa Tôn Tam.
  40. Đại sư Chơn Minh – Đạo Quang – Thiện Thành (1883-1956), Tăng mục chùa Tam Thai.
  41. Đại sư Như Hường – Bảo Thắng (1887-1953), Tăng mục chùa Tam Thai.
  42. Hòa thượng Chơn Chánh – Đạo Hòa – Thiện Quả (1888-1960), trụ trì Quốc Tự Linh Ứng.
  43. Ngày mừng cho chùa Vu Lan được triều đình ban “Sắc tứ”.
  44. Hòa thượng Tăng cang Thích Phổ Thoại lập bổn tỉnh chư sơn tại chùa quan Long Tuyền vào năm Tân Dậu (1921).
  45. Theo bia Khải Định nguyên niên (1916): “… 維 新 三 年 鑄 大 銅 鐘…” (… Duy Tân tam niên chú đại hồng chung…).
  46. Cư sĩ Trừng Huệ – Trần Ngọc Lan (nguyên Gia trưởng đầu tiên GĐPT Long Thơ), sáng lập viên chùa Tỉnh Hội – Đà Nẵng.
  47. Năm 2008, chùa An Hội vào diện giải tỏa, HT Thích Như Thọ cung thỉnh long vị Tổ Phước Trí về an trí tại Tổ đình Vu Lan. TT Thích Viên Bổn đã di dời các bảo vật về trân tàng tại chùa Viên Giác – Hội An.
  48. Ván khắc được TT Thích Viên Bổn đang trân tàng tại chùa Viên Giác – Hội An.
  49. 盂 蘭 寺 住 持 四 十 世 諱 眞 佐 字 道 化 號 尊 保 本 師 傳 授” (Vu Lan tự trụ trì tứ thập thế húy Chơn Tá, tự Đạo Hóa, hiệu Tôn Bảo Bổn sư truyền thọ).
  50. Không hiểu sao bài kệ này lại dùng chữ Phước mà không dùng chữ Quốc?
  51. Ở đây, chắc vì do thói quen khi trước dùng chữ Tuyên thay cho Tông vì kỵ húy tên vua Thiệu Trị (Nguyễn Phước Miên Tông).
  52. Bảng Pháp quyển này đang được trân tàng tại Phước Long cổ tự – Duy Xuyên.
  53. Tổ Sư Nguyên Thiều theo kệ Tổ sư Tổ Định – Tuyết Phong có pháp danh Siêu Bạch (trong Hành Siêu Minh Thiệt Tế…).
  54. Tổ Quảng Độ còn có pháp danh Phật Tuyết trước khi đắc pháp với Tổ Ân Triêm. Sau đó được Tổ ban Pháp danh Pháp Ấn.
  55. Trước khi cầu pháp HT Tôn Bảo, HT Như Thọ đã quy y với HT Thiện Quả và được truyền Sa di giới.
  56. Bài kệ này, hầu như chư tôn đức đều rút ra từ bài kệ được HT Quán Thông đã khắc ván pháp quyển tại chùa Chúc Thánh.