I. Duyên khởi
Vùng đất Thủ Thiêm, một vùng đất bán đảo tựa như một cù lao xanh mướt cây cỏ ruộng vườn, yên ắng biệt lập với một phố thị sầm uất náo nhiệt bên kia sông Sài Gòn, nhưng chính nơi đó là chốn đi về của các bậc tu hành đức độ thuột dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh, từ miền đất Phú Yên vào chốn này, từng bước dựng những am tranh tu hành và đặt dấu ấn hoằng pháp khai mở thiền phái cho vùng đất phồn hoa đô thị của Sài Gòn thuở ban đầu hoằng hóa.
Người đặt nền móng đầu tiên ấy là Thiền sư Thích Bửu Chí, ngài pháp danh chữ Như thuộc đời thứ 41 Thiền phái Lâm Tế, thế hệ thứ 6 Chúc Thánh thuộc Tổ đình Phước Sơn, Đồng Tròn, Phú Yên. Tổ Bửu Chí nguyên là sư đệ của Tổ Như Đắc – Giải Tường, vì bổn sư khuất núi sớm nên ngài y chỉ vào Hòa thượng sư huynh là Tổ Như Đắc – Giải Tường nên xem tổ như thầy của mình. Ngài là người không học nhiều nhưng có đại nguyện du phương xây chùa tạo tượng. Chính ngài là người đi vào vùng đất Thủ Thiêm đâu tiên vào thời gian sau năm 1945 và xây nên ngôi chùa Đông Hưng.
Sau khi chọn ngài Thị An – Hành Trụ để giao lại ngôi chùa này, Tổ Bửu Chí đã lần lượt xây dựng thêm hai ngôi chùa nữa hiệu là Thiền Tịnh sau giao cho ngài Đồng Viên – Thông Đức, và cuối cùng là ngôi chùa Linh Sơn, tại nơi đây ngài đã xả báo thân trên vùng đất này như hạnh nguyện. Sư đệ đồng môn của ngài Thị An – Hành Trụ là ngài Bảo Sơn từ Phú Yên cũng vào xây thêm một ngôi chùa nữa đặt hiệu là Từ Phong. Có thể nói, Thủ Thiêm là vùng đất phát tích của Thiền phái Chúc Thánh đầu tiên tại Sài Gòn – Gia Định xưa.
II. Thân thế và nhân duyên xuất gia
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc Thiền phái Lâm Tế đời thứ 42, dòng kệ Chúc Thánh đời thứ 9. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật. Ngài xuất gia năm 12 tuổi ở chùa làng. Ðến năm 19 tuổi, được Hòa thượng Như Đắc – Giải Tường chùa Phước Sơn thế độ làm đệ tử và tu học tại đây. Năm 22 tuổi, ngài được bổn sư cho thọ cụ túc giới và giữ chức thư ký trong chùa.
Với phong cách đĩnh đạc và say mê học hỏi, ngài đã trau dồi kinh luật nội điển cùng quốc văn ở hầu hết các trường Hạ, khóa học được tổ chức bấy giờ ở khắp các đạo tràng như chùa Thiên Phước (Thủ Đức) năm 1934; đạo tràng Tổ đình Bát Nhã (Phú Yên) năm 1935… Gặp lúc phong trào chấn hưng Phật giáo đang phát triển, ngài vào Nam tham học ở Thích học đường Lưỡng Xuyên do các Hòa thượng Khánh Hòa, Khánh Anh, Huệ Quang lãnh đạo.
III. Sự nghiệp hành đạo
Năm 1936, ngài được tiến cử ở làm Giáo thọ sau khóa trường Hương do Hội Lưỡng Xuyên Phật Học tổ chức tại chùa Long Phước ở Vĩnh Long. Sau đó, ngài được cử ra Huế học tại Phật học đường chùa Tường Vân, rồi đến chùa Tây Thiên cùng với học tăng cả ba miền tham dự, do Quốc sư Phước Huệ làm pháp chủ giảng dạy.
Năm 1940, vì bệnh duyên trầm trọng, ngài phải trở vào Nam điều trị và ở lại giảng dạy tại Ni trường chùa Kim Sơn ở Phú Nhuận. Sang năm 1942, Ngài được Tổ Khánh Hòa bổ về Sóc Trăng làm Giáo thọ giảng dạy ở chùa Hiệp Châu, chi hội Kế Sách của Hội Lưỡng Xuyên Phật Học và chùa Viên Giác tại Vĩnh Long.
Năm 1945, ngài được Hòa thượng Chánh Thành, chùa Vạn An, mời về làm Giáo thọ giảng dạy tại chùa Hội Phước, Nha Mân tỉnh Sa Đéc. Trong thời gian ấy, ngài làm Đệ nhất Yết ma trong Đại giới đàn chùa An Phước, Châu Đốc. Sau đó, ngài về trụ ở chùa Long An ở Sa Đéc, tại nơi đây đã kết nghĩa pháp đạo huynh đệ cùng ba vị tăng là Khánh Phước, Thới An, Thiện Tường và hẹn nhau cùng mở Phật học đường để hoằng bá đạo pháp. Chư tăng khắp lục tỉnh nghe tiếng, hội tụ về đây tu học rất đông. Xuất thân từ đây có các Hòa thượng Từ Nhơn, Hòa thượng Huệ Hưng…
Năm 1946, ngài với ba vị sư đệ kết nghĩa rời đất Sa Đéc lên Sài Gòn hợp nhau lập chùa Tăng Già ở vùng Xóm Chiếu (hiện nay đổi hiệu là chùa Kim Liên, quận 4, TP. Hồ Chí Minh) để tiếp độ chúng Tăng tựu về học. Đây là Phật học đường đầu tiên ở đất Sài Gòn tiếp nối lý tưởng của phong trào chấn hưng Phật giáo, mở đường cho các Phật học viện sau này phát triển tại đất Sài Gòn.
Năm 1947, ngài lại cùng ba vị sư đệ dựng nên ngôi già lam thứ hai là chùa Giác Nguyên để chuyển chư Tăng về đây tu học, chùa Tăng Già biến thành trường Phật học dành cho Ni chúng. Hai đạo tràng này ngày thêm vang tiếng và tăng ni khắp nơi về học rất đông, góp sức phần lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại đất Sài Gòn bấy giờ. Ngài đảm nhiệm Giám đốc Phật học đường Giác Nguyên và Hóa chủ Phật học Ni trường Tăng Già.
Năm 1948, ngài mở Đại giới đàn tại Phật học đường Giác Nguyên để truyền trao giới pháp cho tăng ni thọ trì tu học. Sau ngài được đề cử làm Trưởng ban Nghi lễ của Giáo hội Tăng già Nam Việt vào năm 1951, làm Chứng minh Đạo sư Hội Phật học Nam Việt tại chùa Xá Lợi Sài Gòn cho đến cuối đời (1956-1984), và làm Trưởng đoàn Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị Phật giáo Thế giới kỳ 4 tại Nam Vang năm 1957.
Năm 1963, ngài khai mở Phật học đường Chánh Giác tại chùa Chánh Giác ở Gia Định do ngài làm Giám đốc kiêm trụ trì. Sau đó, ngài về trụ trì thêm chùa Đông Hưng ở Thủ Thiêm và chọn nơi này làm chốn tĩnh tu nhập thất vào những mùa an cư kiết hạ. Năm 1967-1969, ngài được cung thỉnh làm Giới sư các Đại giới đàn Hải Đức ở Phật học viện Hải Đức (Nha Trang) và Quảng Đức ở Phật học viện Huệ Nghiêm (Sài Gòn).
Năm 1975, 1977-1980, liên tiếp ngài làm Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới đàn tại chùa Ấn Quang do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mở ra để truyền trao giới pháp cho giới tử toàn quốc.
Từ năm 1977-1981, ngài kiêm chức Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Tăng sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, ngài được cung thỉnh vào làm Thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương. Nhận thấy thời gian đồng hành với lão bệnh, phát sinh nơi thân tứ đại, từ năm 1976 trở đi, Ngài phát nguyện nhập thất an tịnh cho đến khi về cõi Phật.
Vào ngày 29 tháng 10 năm Giáp Tý (1984), huyễn thân ngài nhẹ nhàng chuyển hóa. Ngài trụ thế 80 năm, được 59 hạ lạp, để lại trong tâm tưởng đàn hậu tấn niềm tri ân vô hạn bởi một sự nghiệp vô cùng lớn lao.
IV. Sự nghiệp để lại
Ngài có công đức lớn trong nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nhiều thế hệ tăng tài, và truyền thừa chánh pháp qua việc phiên dịch, ấn hành nhiều kinh luật phổ biến với các tác phẩm để lại:
– Sa Di Luật Giải.
– Qui Sơn Cảnh Sách.
– Tứ Phần Giới Bổn Như Thích.
– Phạm Võng Bồ Tát Giới.
– Kinh A Di Đà Sớ Sao.
– Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên.
– Kinh Hiền Nhân.
– Kinh Trừ Khủng Tai Hoạn.
– Tỳ Kheo Giới Kinh.
– Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn.
– Long Thơ Tịnh Độ.
– Sơ Đẳng Phật Học Giáo Khoa Thư.
– Nghi Thức Lễ Sám.
– Kinh Thi Ca La Việt.
– Sự Tích Phật Giáng Thế.
Hòa thượng là vị Sư Biểu của hàng cao tăng đạo cao đức trọng, uy kính trong Tăng già. Công hạnh của ngài mãi còn được sự ngưỡng vọng trong lòng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam.
V. Truyền thừa
Tổ Minh Hải – Pháp Bảo (thuộc thế hệ thứ 34 trong bài kệ truyền pháp dòng Vạn Phong – Thời Ủy, là người tỉnh Phước Kiến, Trung Hoa, sang Quảng Nam thời chúa Nguyễn, khai sơn chùa Chúc Thánh và lập ra dòng kệ truyền thừa pháp phái như sau:
Minh thật pháp toàn chương
Ấn chơn như thị đồng
Chúc thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa trường
Ðắc chánh luật vi tuyên,
Tổ đạo giải hành thông
Giác hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhân thiên trung.
Dòng thiền truyền thừa của ngài gọi là Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh. Trong dòng Lâm Tế Chúc Thánh, các Tổ dùng bốn câu đầu để đặt pháp danh cho đệ tử và dùng bốn câu kệ sau để đặt pháp tự cho các vị tăng ni. Theo đó, Hòa thượng Hành Trụ húy (pháp danh) là Thị An, nên pháp tự phải bắt đầu bằng chữ tương ứng là chữ Hành. Các vị tăng đệ tử của Hòa thượng Thị An – Hành Trụ tại chùa Ðông Hưng đều có pháp tự bắt đầu bằng chữ Thông (vì pháp danh bắt đầu bằng chữ Ðồng).
Các đệ tử truyền thừa bên tăng của ngài đều là các vị xuất chúng, thuộc Thiền phái Lâm Tế đời thứ 43, dòng kệ Chúc Thánh đời thứ 10 như các vị:
– Đồng Tín – Thông Nhiệm (PHV Huệ Nghiêm)
– Đồng Chỉ – Thông Quán (PHV Huệ Nghiêm)
– Đồng Liễu – Thông Ngộ (PHV Huệ Nghiêm)
– Đồng Định – Thông Luận (Trụ trì chùa Thiền Tịnh)
– Đồng Điển – Thông Kinh (Trụ trì chùa Đông Hưng)
– Đồng Thái – Thông Luật (Trụ trì chùa Từ Phong)
– Đồng Bổn – Thông Trí (Trụ trì chùa Xá Lợi)
– Đồng Văn – Thông Tri (Trụ trì chùa Viên Giác)
Các vị đệ tử truyền thừa bên ni của ngài là thế hệ ni chúng nổi tiếng với “Giòng họ Tịnh” vốn là chư học ni tại Phật học đường Tăng Già đều thọ pháp làm đệ tử sau khi tốt nghiệp từ Phật học đường này với số lượng trên 100 vị mang pháp hiệu chữ Tịnh. Chư ni họ Tịnh tiếp tục hoằng bá giáo pháp đi khắp bốn phương và tiếp độ ni chúng rộng khắp ba miền Trung Nam Bắc và hiện nay ra đến hải ngoại (như Ni sư Đồng Kính- trụ trì thiền viện Vô Ưu, bang California, Hoa Kỳ).
Hiện nay, truyền thừa sơn môn Đông Hưng đã rộng khắp và đã truyền xuống đến các thế hệ thứ 44 chữ Chúc, thứ 45 chữ Thánh, thứ 46 chữ Thọ, thứ 47 chữ Thiên… (như chốn tổ Đồng Thiện Hải Phòng do Ni trưởng Thích nữ Tịnh Nguyệt ra Bắc học luật với Tổ Tuệ Tạng và ở lại hoằng hóa). Số tu sĩ tăng ni của sơn môn Đông Hưng truyền thừa qua các thế hệ hiện nay đã lên tới trên số ngàn. Đó cũng là do sự hộ trì của Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo, đấng khai sáng Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh bắt nguồn từ đất Quảng Nam mà quảng bá ra rộng khắp như vậy./.
TỲ KHEO THÍCH THÔNG TRÍ
Tổ đình Đông Hưng – TP. Hồ Chí Minh
* Thượng tọa, Tiến sĩ Thích Đồng Văn
Trưởng phòng Đào tạo Sau đại học – Học viện PHVN cơ sở II
Trụ trì chùa Viên Giác, Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh