Mối quan hệ giữa Tổ đình Chúc Thánh (Quảng Nam) và Tổ đình Thiên Ấn (Quảng Ngãi) (Tỳ kheo Thích Trí Thắng)

          Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh được Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo khai sáng và kiến lập Tổ đình Thiền phái Chúc Thánh tại Hội An – Quảng Nam.

          Ngài cũng đã xuất kệ truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh cho đến nay trên 300 năm phát triển, rất là sâu rộng. Đồng thời, thiền phái này cũng đã đóng góp rất lớn trong sự nghiệp phát triển cho cộng đồng Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng.

          Với sự thành tựu rộng lớn đó, Ban Điều hành Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh kết hợp cùng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam Tổ chức Hội thảo khoa học “Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh: Lịch sử hình thành và phát triển” nhằm nắm bắt những kiến giải sâu sắc, những thực tế hóa về tư duy… trong quá trình đóng góp và phát triển Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.

          Với tham luận này, chúng tôi chỉ mong muốn là làm rõ vị Tổ khai sơn Tổ đình Chúc Thánh ở Hội An (Quảng Nam), với vị Tổ khai sơn Tổ đình Thiên Ấn ở Quảng Ngãi là hai vị Tổ khác nhau hay chỉ là một vị. Đồng thời, lý do nào mà từ trước đến nay chư tăng Quảng Ngãi vẫn sử dụng dòng kệ truyền thừa pháp danh, pháp tự của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Hội An.

          Vị Tổ khai sơn Tổ đình Chúc Thánh Quảng Nam có cùng khai sơn Tổ đình Thiên Ấn Quảng Ngãi?

          Theo sách “Lịch sử Phật giáo xứ Đàng Trong”, tác giả Nguyễn Hiền Đức viết rằng vào những năm 1694-1695, Tổ Nguyên Thiều và Tổ Minh Hải – Pháp Bảo liên quan đến vụ nổi loạn của Linh Vương, Quảng Phú ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, nên Tổ Minh Hải lánh vào Quảng Ngãi khai sơn chùa Thiên Ấn và đổi pháp danh là Pháp Hóa; còn Tổ Nguyên Thiều vào Đồng Nai dựng chùa Kim Cang đổi pháp danh là Siêu Bạch. Điều này hoàn toàn không đúng với những sự kiện lịch sử sau đây:

          – Ngày 28 tháng Giêng năm Ất Hợi – 1695, Tổ Minh Hải mới qua Đại Việt với Hòa thượng Thích Đại Sán thể theo thư mời của chúa Nguyễn Phúc Chu (do hai sứ giả Trần Thiêm Quan và Ngô Tư Quan mang thư qua Trung Hoa) để khai mở đại giới đàn vào ngày mùng một tháng tư năm Ất Hợi (1695) tại chùa Thiền Lâm (Huế). Tiếp đến tháng 6, là khai giới đàn tại chùa Di Đà – Hội An. Đến ngày 12 tháng 10 năm ấy, chúa Nguyễn Phúc Chu mời trở lại kinh thành Phú Xuân lập đàn cúng Phật truyền giới lần nữa tại chùa Thiên Mụ.

          Mới bước chân qua Đại Việt, với công việc Phật sự bề bộn như trên, thì làm sao Tổ Minh Hải dính líu đến vụ nổi loạn của Linh Vương, Quảng Phú đã xảy ra năm 1694, tức là trước khi Tổ Minh Hải qua Đại Việt một năm?

          – Nếu như Tổ Nguyên Thiều cũng liên quan đến vụ nổi loạn của Linh Vương, Quảng Phú thì làm sao chúa Nguyễn Phúc Chu không những ban thụy hiệu cho Thiền sư Nguyên Thiều là “Hạnh Đoan Thiền sư” mà lại còn viết một bài minh khắc vào bia để ca tụng đạo đức của Thiền sư? Và làm sao chúa Nguyễn Phúc Trú (1725-1738) đề bia đá dựng tại chùa Quốc Ân năm 1728 nói về công hạnh của Tổ Nguyên Thiều?

          – Nếu cả Tổ Nguyên Thiều và Tổ Minh Hải – Pháp Bảo đều liên quan đến vụ nổi loạn thì làm sao các hàng đệ tử của Tổ Minh Hải như: Thiệt Diệu – Chánh Hiền, Thiệt Thọ – Chánh Hóa, Thiệt Dinh – Chánh Hiển, v.v… yên thân duy trì chùa Chúc Thánh do Tổ Minh Hải – Pháp Bảo khai sơn năm 1696 (sau niên đại khai sơn chùa Thiên Ấn 02 năm)?

          – Nếu như Tổ Nguyên Thiều cũng dính líu đến vụ nổi loạn thì các đệ tử của Tổ Nguyên Thiều như: Minh Giác – Kỳ Phương, Minh Trí – Nguyệt Hạnh, Minh Lượng – Thành Đẳng – Nguyệt Ân, Minh Dung – Thành Chí – Pháp Thông, v.v… yên thân hành đạo nơi chùa Thập Tháp (Bình Định), Quốc Ân (Huế), Hà Trung (Thuận Hóa) trong khi bổn sư đi trốn? Chúng ta biết rằng trong xã hội thời đó, một người làm phản thì ba họ bị tru diệt. Vậy làm sao mà học trò sống yên khi bổn sư làm loạn?

          Trên đây là những sự kiện lịch sử và lý do chứng minh Tổ Minh Hải – Pháp Bảo và Tổ Nguyên Thiều không liên quan đến vụ nỗi loạn của Linh Vương, Quảng Phú. Đồng thời, Tổ Minh Hải – Pháp Bảo không phải là người trốn vào Quảng Ngãi khai sơn chùa Thiên Ấn như cái hiểu xưa nay một cách ngộ nhận của một số chư tăng Quảng Ngãi.1

          – Tổ Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh Hội An, Quảng Nam vào năm 1696.

          Tổ Phật Bảo – Pháp Hóa khai sơn chùa Thiên Ấn Quảng Ngãi vào năm Giáp Tuất (1694). Ngài họ Lê huý Duyệt, sinh năm Canh Tuất (1670), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa. Ngài qua Đại Việt với Tổ sư Nguyên Thiều, hoặc Tổ Minh Dung – Thành Chí – Pháp Thông, trong thời chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691).

          Tổ Phật Bảo – Pháp Hóa là đệ tử thọ giới và đắc pháp với Thiền sư Minh Dung – Thành Chí – Pháp Thông. Như vậy, Tổ khai sơn Tổ đình Chúc Thánh Quảng Nam và Tổ khai sơn Tổ đình Thiên Ấn Quảng Ngãi là hai vị khác nhau, không phải cùng một vị như xưa nay ngộ nhận!2.

          Tại sao ở Quảng Ngãi vẫn dùng dòng kệ truyền thừa pháp danh và pháp tự của Tổ Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Quảng Nam?

          Chùa Thiên Ấn do Thiền sư huý Phật Bảo, hiệu Pháp Hóa, Lâm Tế đời thứ 35 thuộc pháp phái Lâm Tế Gia Phổ của Tổ Đạo Mân – Mộc Trần khai sơn.

          Về hành trạng của Thiền sư Phật Bảo – Pháp Hóa, đã có nhiều công trình biên soạn và ấn hành, nhưng có một số ấn bản không trùng khớp.

          Theo sử liệu và một số công trình nghiên cứu có tính thống nhất3 thì Ngài họ Lê huý Duyệt, sinh năm Canh Tuất (1670), quê tỉnh Phúc Kiến – Trung Hoa. Ngài thọ giáo và đắc pháp với Tổ Minh Dung – Thành Chí – Pháp Thông. Ngài sang Đại Việt cùng với Tổ sư Nguyên Thiều và sư Tổ Minh Dung – Thành Chí – Pháp Thông, thời chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691) khi sư Nguyên Thiều được chúa Nguyễn Phúc Trăn cử về Trung Hoa thỉnh Kinh, Tượng, Pháp khí, v.v… để khai mở Giới đàn tại chùa Thiên Mụ. Sau khi hoàn mãn Giới đàn, Thiền sư Phật Bảo – Pháp Hóa cùng với Bổn sư là Hòa thượng Minh Dung – Thành Chí – Pháp Thông, về chùa Hoàng Long, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Đến năm Giáp Tuất (1694), Thiền sư Phật Bảo – Pháp Hóa khai sơn chùa Thiên Ấn, tức trước khi Hòa thượng Minh Hải – Pháp Bảo qua Đại Việt 01 năm4. Ngài Phật Bảo – Pháp Hóa không xuất kệ truyền thừa.

          Chùa Chúc Thánh Hội An – Quảng Nam do Thiền sư Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo khai sơn. Ngài có thế danh là Lương Thế Ân, sinh vào giờ Tuất ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất (1670) tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa. Ngài xuất gia tại chùa Báo Tư, tỉnh Quảng Châu, với pháp danh Minh Hải, hiệu Pháp Bảo. Như vậy, ngài là đời thứ 34 theo pháp kệ của Tổ Vạn Phong – Thời Ủy chùa Thiên Đồng.

          Ngài qua Đại Việt với Hòa thượng Thích Đại Sán năm Ất Hợi (1695) thể theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu do hai sứ giả Trần Thiêm Quan và Ngô Tư Quan mang thư qua Trung Hoa. Sau khi hoàn mãn Giới đàn tại chùa Thiền Lâm (Huế), Thiền sư Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo không về Trung Quốc mà ở lại Đại Việt hành đạo. Ngài khai sơn chùa Chúc Thánh vào năm 1696 và xuất kệ truyền pháp như sau:

 

          Minh Thiệt Pháp Toàn Chương

          Ấn Chơn Như Thị Đồng

          Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu

          Kỳ Quốc Tộ Địa Trường

 

Và bài kệ truyền pháp tự:

 

          Đắc Chánh Luật Vi Tôn

          Tổ Đạo Giải Hạnh Thông

          Giác Hoa Bồ Đề Thọ

          Sung Mãn Thiên Nhân Trung.5

 

          Bài kệ này thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh, đã được truyền thừa khắp xứ Đàng Trong. Ở Quảng Ngãi, có đệ tử của Tổ Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo là Hòa thượng Thiệt Uyên – Chánh Thông – Chí Bảo, khai sơn chùa Bảo Lâm ở xã Tư Cung, tổng Bình Châu, huyện Bình Sơn, nay là thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh. Hòa thượng Pháp Minh – Khánh Vân, đệ nhị Tổ chùa Thiên Ấn, Hòa thượng Pháp Kiêm – Luật Oai – Minh Giác, xã Bình Chương, Bình Sơn, v.v…

          Tại Quảng Ngãi, bài kệ này truyền xuống đời 41 tông Lâm Tế, đời thứ 8 dòng thiền Chúc Thánh, chư Hòa thượng có pháp danh chữ Như và pháp tự chữ Giải, pháp hiệu chữ Huyền.

          Nói chung, vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh với bài kệ truyền thừa của Tổ Minh Hải – Pháp Bảo đã được phổ tập rộng khắp. Vả lại, một số Thiền sư và chư Tổ hàng chữ Thiệt, chữ Phật là đệ tử của Tổ Minh Hải – Pháp Bảo, hoặc của Tổ Minh Dung – Thành Chí – Pháp Thông khai sơn chùa Sắc tứ Hoàng Long, nay là chùa Sắc tứ Liên Tông, Tư Nghĩa.

          Điều kiện căn bản và cốt lõi chính là Hòa thượng Pháp Minh – Khánh Vân, đệ nhị tổ Tổ đình Sắc tứ Thiên Ấn. Từ đó, dòng kệ truyền thừa của dòng Lâm Tế Chúc Thánh Quảng Nam củng là dòng kệ truyền thừa của dòng Lâm Tế Thiên Ấn Quảng Ngãi.

          Những lý do nêu trên là nguyên nhân để cho Tăng Ni Quảng Ngãi trải qua nhiều thế hệ con cháu đã sử dụng dòng kệ truyền thừa của Tổ đình Chúc Thánh Quảng Nam.

          Kính chúc Chư Tôn Thiền Đức và Ban Tổ chức hội thảo dồi dào sức khỏe.

          Kính chúc Hội thảo thành tựu viên mãn.

Quảng Ngãi ngày 20 tháng 8 năm 2020
Con cháu của Tổ

Tỳ kheo Thích Trí Thắng

 

 

_Chú thích:

1. Lịch sử Phật giáo và các ngôi chùa Quảng Ngãi, trang 94, 95.
2. Lịch sử Phật giáo và các ngôi chùa Quảng Ngãi, trang 129.
3. – Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Lá Bối CA – USA, 1993, quyển 2, trang 156.
    – Thích Như Tịnh, Lịch sử truyền thừa Thiền Phái Lâm tế Chúc Thánh, NXB Phương Đông, 2009, trang 226-228
    – Phạm Trung Việt, Non nước Xứ Quảng, San yose, USA, 1988.
    – Lê Vinh Bổn, Từ mộc bản kinh Diệu Pháp Liên Hoa chùa Phật Quang Phan Thiết, đi tìm hành trạng “Khất sĩ” Minh Quang – Thành Chí – Pháp Thông
4. Lịch sử Phật giáo và các ngôi chùa Quảng Ngãi, trang 464.
5. Lịch sử Phật giáo và các ngôi chùa Quảng Ngãi, trang 58, 59.