Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Thừa Thiên – Huế (Tỳ kheo Thích Hạnh Tánh)

          Sau ngày Tổ Minh Hải – Pháp Bảo xuất kệ truyền thừa, dòng thiền Chúc Thánh tại chùa Chúc Thánh – Hội An, và đã có các vị thiền sư dòng Chúc Thánh đã ra kinh đô Phú Xuân tham dự các pháp hội và hoằng pháp. Năm Minh Mạng thứ 2, Tân Tỵ (1821), Hòa thượng Pháp Kiêm – Minh Giác, trụ trì chùa Phước Lâm, Hội An, cùng với 20 Tăng chúng được triều đình mời tham dự đại trai đàn tại chùa Thiên Mụ. Trong dịp này, các đệ tử của Ngài như: Toàn Đức – Hoằng Tông; Toàn Định – Bảo Tạng; Toàn Chiếu – Bảo Ấn, v.v… được triều đình khâm ban độ điệp. Đến năm Ất Mùi (1835), Minh Mạng thứ 16, Thiền sư Toàn Nhâm – Quán Thông cùng các môn đồ cũng được mời tham dự trai đàn và sắc ban độ điệp. Tuy các Ngài không trác tích hoằng pháp tại Cố đô nhưng đã đặt nền tảng cho mối thâm tình giữa chư Tăng hai vùng Thuận – Quảng. Giới đàn năm Giáp Ngọ (1894), tại chùa Báo Quốc do Hòa thượng Hải Thuận – Diệu Giác làm Đường đầu đã có một số chư Tăng dòng Chúc Thánh tham dự trong Hội đồng thập sư như: Hòa thượng Ấn Bổn – Vĩnh Gia: chùa Phước Lâm, Hội An, làm đệ nhị tôn chứng; Hòa thượng Chơn Tâm – Pháp Thân: chùa Phước Huệ, Huế, làm đệ tam tôn chứng; Hòa thượng Ấn Lan – Từ Trí: chùa Linh Ứng, Ngũ Hành Sơn, làm đệ ngũ tôn chứng; Hòa thượng Hoằng Giải: chùa Thạch Sơn, Quảng Ngãi, làm đệ lục tôn chứng; Hòa thượng Chơn Kim – Pháp Lâm: chùa Châu Lâm, Phú Yên, làm đệ thất tôn chứng; các thượng tọa Chơn Kiết – Phổ Hóa; Chơn Đĩnh – Phước Thông tại Quảng Nam làm dẫn thỉnh sư, v.v… Đặc biệt, Thiền sư Ấn Bổn – Vĩnh Gia, trụ trì chùa Phước Lâm là người có mối giao lưu thâm tình và có uy tín lớn đối với Tăng già xứ Huế. Ngài cũng chính là vị Thầy truyền giới cho các Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Thích Giác Nhiên: đệ nhất và đệ nhị Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Giới đức và uy tín của Ngài đã được Hòa thượng Huệ Pháp, trụ trì chùa Thiên Hưng, viết văn bia ca ngợi, phụng thờ pháp tướng tại tổ đường chùa Thiên Hưng. Đặc biệt, Thiền sư Trừng Huệ – Giác Viên, giới tử đắc giới với Ngài trong Giới đàn Phước Lâm năm Canh Tuất (1910), đã lập long vị Hòa thượng truyền giới phụng thờ một cách trang trọng tại tổ đường chùa Hồng Khê.

          Dưới triều vua Thành Thái, các vị thiền sư dòng Chúc Thánh chính thức trác tích hoằng pháp tại Thừa Thiên, Huế. Đó là Thiền sư Chơn Kim – Pháp Lâm: trụ trì Tổ đình Viên Thông, núi Ngự Bình, Thiền sư Chơn Tâm – Pháp Thân: trụ trì chùa Phước Huệ, Vỹ Dạ và Thiền sư Chơn Pháp – Phước Trí khai sơn chùa An Hội, Gia Hội.

          Từ ngôi Quốc tự Tam Thai, Thiền sư Chơn Pháp – Phước Trí được bổn đạo cung thỉnh chứng minh khai sơn chùa An Hội vào những năm cuối thế kỷ XIX. Sau hơn 10 năm hành đạo tại đây, ngài giao chùa lại cho đệ tử là ngài Như Ngộ, hiệu Tôn Hội, để về lại Quảng Nam. Từ đó, ngôi chùa An Hội dần suy tàn và vào năm 2008 trong kế hoạch giải tỏa xây dựng chỉnh trang đô thị Huế thì chùa đã không còn.

          Tọa lạc tại thôn Vỹ Dạ, chùa Phước Huệ được Tuy Lý Vương Miên Trinh xây dựng năm Đinh Hợi (1887) để người cháu nội của mình là Thiền sư Pháp Thân tu hành. Thiền sư Pháp Thân, thế danh Nguyễn Phúc Ưng Đỗ, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại Vỹ Dạ, thân phụ là cụ ông Nguyễn Phúc Hường Dược và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Quỳ. Trong những tháng năm kinh thành Huế loạn lạc với phong trào Cần Vương, hoàng thân Ưng Đỗ lánh nạn vào tại phủ Tuy An, tỉnh Phú Yên. Tại đây, ngài đã xuất gia đắc pháp với Tổ Ấn Thiên – Huệ Nhãn tại chùa Từ Quang (Đá Trắng) với pháp danh Chơn Tâm, tự Đạo Tánh, hiệu Pháp Thân, truyền thừa đời 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh. Sau khi đắc pháp, Ngài về lại kinh thành lập chùa Phước Huệ tại thôn Vỹ Dạ để tu hành. Năm Giáp Ngọ (1894), Ngài được cung thỉnh làm Đệ tam tôn chứng tại giới đàn chùa Báo Quốc. Thừa hưởng bẩm chất thông minh mẫn duệ của dòng dõi Tuy Lý Vương, Ngài đã dày công trước tác cuốn Tam Bảo Biện Hoặc Luận Chú. Mục đích của cuốn này là giải thích, chú giải những uyên áo thâm sâu của tác phẩm Tam Bảo Biện Hoặc Luận do Tổ Pháp Chuyên – Diệu Nghiêm biên soạn trước đó trên 100 năm. Ngài là người tài hoa nhưng bạc mệnh nên đã viên tịch vào ngày 27 tháng 11 năm Ất Mùi (1895), hưởng dương 28 tuổi, tháp mộ lập tại chùa Thiên Hòa, phường Đúc, Huế.

          Kế thừa ngài Pháp Thân, Thiền sư Chơn Kiết, tự Đạo Tường, hiệu Phổ Hóa là trưởng tử của Tổ Ấn Bổn – Vĩnh Gia từ chùa Phước Lâm, Hội An, ra trụ trì chùa Phước Huệ. Sinh thời, ngài Pháp Thân và ngài Phổ Hóa có mối thâm giao với nhau. Chính ngài Phổ Hóa đã chấp bút cuốn Tam Bảo Biện Hoặc Luận Chú do ngài Pháp Thân trước tác. Ngoài ra, với nét bút tài hoa, ngài Phổ Hóa cũng đã sao chép nhiều tác phẩm quý để lại cho hậu thế tu hành. Đến tháng Giêng năm Mậu Ngọ (1918), ngài Phổ Hóa viên tịch tại chùa Phước Huệ, kim quan được đưa về nhập tháp tại Tổ đình Phước Lâm, Hội An. Từ đó, chùa Phước Huệ do dòng họ Tuy Lý Vương chăm sóc và có một thời gian đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết trụ trì hành đạo tại đây.

          Hiện tại, trong tổ đường chùa Phước Huệ còn thờ 3 long vị. Một long vị của Thiền sư Ấn Thiên, tự Tổ Hòa, hiệu Huệ Nhãn, trụ trì chùa Từ Quang và Phước Sơn, tỉnh Phú Yên là Bổn sư của ngài Pháp Thân. Một long vị ngài Pháp Thân và một long vị của ngài Phổ Hóa.

          Hiện tại, chùa Phước Huệ không còn truyền thừa theo kệ phái Chúc Thánh, nhưng nơi đây đã từng lưu dấu của các vị cao tăng như: Hòa thượng Pháp Tạng, Hòa thượng Pháp Hỷ tỉnh Phú Yên; Hòa thượng Phước Huệ tỉnh Bình Định, Hòa thượng Vĩnh Gia, Hòa thượng Phổ Hóa tỉnh Quảng Nam trong những lần lai kinh hoằng pháp.

          Tọa lạc dưới chân núi Ngự Bình thuộc xã Thủy An, huyện Hương Thủy, thành phố Huế, ngôi cổ tự Viên Thông trầm mặc chứng nhân của bao biến thiên của thế sự vô thường. Chùa được Thiền sư Thiệt Diệu – Liễu Quán, vị Tổ sáng lập Thiền phái Lâm Tế Liễu Quán Nam Hà khai sơn vào những năm đầu thế kỷ XVIII. Suốt cuộc đời hoằng pháp, gần như Tổ sư Liễu Quán gắn liền với chùa Viên Thông nhiều nhất. Kế thừa trụ trì có các ngài: Tế Phổ – Trí Thông, Đại Nguyện – Vĩnh Thành, Đạo Thiện – Quang Tuấn, Tánh Trạm – Quảng Phong. Thiền sư Tánh Trạm – Quảng Phong viên tịch, do không có pháp tử kế thừa nên vào năm Kỷ Sửu (1889), bổn đạo cung thỉnh Thiền sư Pháp Lâm, trụ trì chùa Châu Lâm, Phú Yên, kế vị trụ trì.

          Thiền sư Pháp Lâm, họ Lê, sinh giờ Hợi ngày mồng 9 tháng 9 năm Tân Dậu (1861) tại ấp Quảng Đức, xã Ngân Sơn, tổng Xuân Sơn, huyện Đồng Xuân, phủ Tuy An, tỉnh Phú Yên. Đồng niên, Ngài xuất gia đắc pháp với Tổ Ấn Chánh – Huệ Minh tại chùa Bảo Sơn với pháp danh Chơn Kim, tự Đạo Vạn, hiệu Pháp Lâm, nối pháp đời 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh.

          Ngài là người giới luật tinh nghiêm, thuyết pháp biện tài nên sớm nổi danh trong chốn tùng lâm và được Bổn sư cử làm trụ trì chùa Châu Lâm tại Tuy An. Năm Đinh Hợi (1887), Ngài ra kinh đô thuyết pháp và đến năm Kỷ Sửu (1889), được bổn đạo cung thỉnh trụ trì Tổ đình Viên Thông tại núi Ngự Bình. Năm Thành Thái thứ 2, Canh Dần (1890), Ngài vận động đúc một quả chuông cao 1,1m để làm pháp khí, cho đến nay vẫn còn lưu giữ tại chùa Châu Lâm.

          Năm Giáp Ngọ (1894), Hòa thượng Diệu Giác khai đại giới đàn tại chùa Báo Quốc, Ngài được cung thỉnh làm Đệ ngũ tôn chứng. Năm sau, Ất Mùi (1895), Ngài đứng ra vận động trùng khắc bộ “Đại Học Chi Thư Yếu Tập” do Tổ Pháp Chuyên – Diệu Nghiêm biên soạn. Lần khắc mộc bản này, Ngài cung thỉnh Bổn sư Huệ Minh, trụ trì chùa Bảo Sơn – Phú Yên chứng minh và ngài Pháp Hỷ, trụ trì chùa Linh Sơn – Phú Yên viết lời bạt. Đây là một cuốn sách rất quan trọng trong việc hành trì giới luật được Tổ Diệu Nghiêm luận giải rất chi tiết. Đồng thời, Ngài cho khắc bảng Chánh Pháp Nhãn Tạng, truyền thừa từ Tổ Minh Hải xuống đến Ngài để xác quyết sự truyền thừa tại chùa Viên Thông.

          Tháng Giêng năm Mậu Tuất (1898), Ngài về thăm chùa Châu Lâm tại Phú Yên. Không bao lâu, Ngài viên tịch vào giờ Tý ngày 14 tháng 2, hưởng dương 38 tuổi. Bảo tháp lưu giữ nhục thân Ngài được lưu giữ tại chùa Châu Lâm – Phú Yên. Các đệ tử tại Huế quy y với Ngài có pháp danh chữ Như vào lập văn bia để thờ, trong đó có bài thơ như sau:

 

                    Văn đạo viên thiền sắc thị không

                    Như Lai di giáo kỷ thu đông

                    Bách niên do ức bình sơn tự

                    Vạn lý quy hồn phú lãnh phong

                    Thạch thất tích tằng linh chấn đạt

                    Lang đài hà nhật cánh chàng chung

                    Bất tri tiên Phật quy hà xứ

                    Bình lãnh di dư kỷ thọ tòng

 

Nghĩa là:

                    Nghe đạo viên thiền sắc tức không

                    Như Lai dạy bảo mấy thu đông

                    Trăm năm còn nhớ Bình Sơn tự

                    Muôn dặm hồn về Phú Lãnh phong

                    Nhà đá xưa từng nghe tiếng mõ

                    Đài lang chừng ấy điểm chừng canh

                    Chẳng biết Phật tiên về đâu nhỉ

                    Ngự phong còn nhớ mấy cây tùng.

 

          Chỉ trong thời gian 10 năm đảm nhận trụ trì chùa Viên Thông (1889-1898), Thiền sư Pháp Lâm đã làm được nhiều Phật sự trọng đại như: Khắc in bộ Hoằng Giới Đại Học Chi Thư và bảng Chánh Pháp Nhãn Tạng, vận động đúc được 4 quả chuông cúng dường các chùa: chùa Bảo Sơn, chùa Linh Sơn Hòn Chồng, chùa Châu Lâm, chùa Long Quang tỉnh Phú Yên. Tuy rằng Ngài đã viên tịch trên 100 năm, thời gian đã xóa đi nhiều kỷ niệm về Ngài, nhưng những quả chuông do Ngài tâm huyết vận động cúng dường triêu mộ nhị thời vẫn ngân nga nơi các chốn tòng lâm tại Phú Yên như nhắc nhở hậu thế công hạnh của tiền nhân luôn sống mãi với thời gian.

          Thiền sư Chơn Kim – Pháp Lâm đã đặt nền tảng cho sự phát triển của dòng thiền Chúc Thánh tại Cố đô Huế. Kế thừa trụ trì chùa Viên Thông từ năm 1898 đến năm 1926 là Thiền sư Như Thừa, tự Giải Trí, hiệu Hoằng Nguyện. Từ năm 1926 đến năm 1981, Hòa thượng Diệu Khai kế nghiệp Bổn sư Hoằng Nguyện, trụ trì chùa Viên Thông.

          Hòa thượng thế danh Bùi Xuân Thái, sinh ngày 30 tháng 3 năm Mậu Thân (1908), tại làng Nam Phổ Trung, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ngài xuất gia tại chùa Viên Thông với Hòa thượng Hoằng Nguyện, được Bổn sư ban pháp danh Thị Bình, hiệu Diệu Khai, nối pháp đời 42 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh.

          Năm Bính Dần (1926), Hòa thượng Hoằng Nguyện viên tịch, Ngài kế thừa Bổn sư trụ trì chùa Viên Thông. Từ đó, Ngài theo học kinh luật với Thượng nhân Viên Thành, chùa Tra Am và nghi lễ với Quốc sư Phước Huệ tại chùa Thập Tháp.

          Ngài có công rất lớn trong việc trùng tu Tổ đình Viên Thông vào các năm 1960, 1964, 1972.

          Hòa thượng Diệu Khai là một trong những vị Sám chủ nổi tiếng của Thừa Thiên – Huế thời bấy giờ. Phần lớn, các đạo tràng đều cung thỉnh Ngài chứng minh và sám chủ. Đặc biệt, trong lễ tang Đức đệ nhất Tăng thống Thích Tịnh Khiết, Ngài được Giáo hội cung thỉnh làm Sám chủ trong suốt 1 tuần tang lễ.

          Vào ngày 7 tháng 6 năm Tân Dậu (1981), Hòa thượng viên tịch tại chùa Viên Thông, hưởng thọ 74 tuổi. Đệ tử nối pháp của Ngài có các Hòa thượng Đồng Chơn – Thông Niệm: trùng kiến chùa Bát Nhã – Đà Nẵng; Đồng Huy – Quảng Tú, trụ trì chùa Viên Thông – Huế. Ni trưởng Đồng An – Diệu Trí: trụ trì chùa Diệu Quang, thành phố Tam Kỳ, v.v…

          Đương kim trụ trì chùa Viên Thông là Hòa thượng Đồng Huy – Quảng Tú, đời pháp 43 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 10 pháp phái Chúc Thánh.

          Hiện nay, tại Thừa Thiên Huế chỉ còn duy nhất chùa Viên Thông truyền theo kệ pháp Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo. Tuy nhiên, công hạnh hoằng pháp của chư vị Tổ sư như Ấn Bổn – Vĩnh Gia; Chơn Kim – Pháp Lâm, Chơn Tâm – Pháp Thân, Chơn Kiết – Phổ Hóa, Chơn Pháp – Phước Trí, v.v… trước đây đối với Phật giáo xứ Huế vẫn không bao giờ phai mờ theo dòng thời gian vô tận./

TỲ KHEO THÍCH HẠNH TÁNH
Trụ trì chùa Vĩnh Gia, Điện Bàn