Bàn về tư tưởng và Pháp tu của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh (TS.Thích Hạnh Tuệ, HVCH. Thích Tâm Chánh)

          Phật giáo Việt Nam đã đồng hành cùng dân tộc, góp phần không nhỏ trong tiến trình khai quốc, định quốc, vệ quốc và kiến quốc trong suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà lịch sử Phật giáo Việt Nam đặc biệt ghi nhận dấu ấn tồn tại, phát triển cùng sự đóng góp hơn 300 năm qua của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh do ngài Minh Hải – Pháp Bảo khai tông lập phái tại chùa Chúc Thánh – Quảng Nam. Từ tông phái Lâm Tế khởi nguyên tại Trung Hoa thế kỷ IX, do Thiền sư Lâm Tế – Nghĩa Huyền đời thứ 38 của dòng truyền thừa lịch sử Thiền tông Ấn – Hoa lập nên. Đến thế kỷ XVII, thông qua công đức du hóa của các vị Thiền sư Trung Hoa như Thiền sư Viên Văn – Chuyết Chuyết, Nguyên Thiều, Minh Hải Pháp Bảo… đến lãnh thổ Đại Việt để hành đạo, và được phát tích sâu rộng tại đây. Chi phái Thiền Lâm Tế Chúc Thánh do ngài Minh Hải – Pháp Bảo biệt kệ lập nên tại chùa Chúc Thánh – Quảng Nam từ Thiền phái Lâm Tế. Từ đó, góp phần mang đến nhiều dấu ấn mới trong việc thực thi các triết lý sống của Phật giáo Đại Việt được phổ cập đến quần chúng, nhất là sự định hình và phát triển của một chi phái Thiền học được khai sáng và hoằng hóa trên vùng đất Quảng Nam qua nội dung các triết lý giáo nghĩa và tư tưởng Thiền học được thể hiện và bản địa hóa để thích ứng phù hợp với nhu cầu tâm thức của cư dân tại đây về phương diện tư tưởng và pháp môn tu tập. Qua đó, không những tạo nên những dấu ấn tích cực trong bối cảnh sinh hoạt tôn giáo tại vùng đất Quảng Nam thời kỳ này mà còn tạo sự ảnh hưởng lan tỏa đến các địa phương và những vùng lân cận sau này.

          Thực tế lịch sử cho thấy, kể từ giai đoạn Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558- 1613) được triều đình chúa Trịnh chấp thuận trở vào vùng đất Thuận Hóa để trấn thủ và mở rộng cương giới đất nước. Có thể thấy, các chúa Nguyễn buổi đầu đều tích cực thực thi các chính sách Phật giáo để bình ổn đời sống cư dân tại đây. Các cơ sở thờ tự của Phật giáo được các chúa Nguyễn chủ trương phục dựng các chùa cũ, tạo lập các chùa mới, ban sắc tứ cho nhiều chùa tại Đàng Trong, song với đó là kiến tạo trai đàn, làm lễ bố thí, bản thân các chúa trở thành Phật tử cũng quy y Phật pháp, thọ Bồ tát giới,… Từ đó mà vai trò và vị thế của Phật giáo đã được chú trọng và phục hưng phát triển hơn trước và Thiền phái Chúc Thánh ra đời.

          Dần dần, dòng thiền này phát triển hưng thịnh không những tại vùng đất Quảng Nam mà còn được truyền thừa lan tỏa đến các nơi trong cả nước cũng như nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

          Khái lượt tư tưởng của tông Lâm Tế

          Thế kỷ IX, lịch sử Phật giáo Trung Hoa ghi nhận sự ra đời của dòng thiền Lâm Tế do Thiền sư Lâm Tế – Nghĩa Huyền khai sáng. Thiền phái này về sau nhanh chóng phát triển dưới triều đại nhà Tống, nhà Thanh của Trung Hoa, và được liệt vào “ngũ gia thất tông” của Thiền tông Trung Hoa bởi sự ảnh hưởng tư tưởng, tông chỉ và pháp tu ngộ đạo do các thiền sư thuộc tông phái Lâm Tế chủ trương. Tiêu biểu như các công án tham thiền, truyền tâm, ấn chứng của Tổ Hoàng Bá, ngài Huệ Chiếu được ghi nhận trong hai tác phẩm “Hoàng Bá Thiền sư truyền tâm pháp yếu” và “Lâm Tế ngữ lục” qua các phương thức tu tập như: thủ thuật đánh, hét của ngài Lâm Tế – Nghĩa Huyền kế thừa từ Mã Tổ – Đạo Nhất, các công án tham thiền, khán thoại đầu của thiền sư Đại Huệ – Tông Cảo; đặc biệt là giáo lý “Tam huyền, Tam yếu”, và “Tứ liệu giản” đều là những nền tảng tu tập quan trọng trong phương pháp kiến tánh- ngộ đạo của Thiền phái Lâm Tế được các vị thiền sư chú trọng khởi xướng giúp các môn sinh đệ tử vượt qua các chấp trước, đối đãi, phân biệt, kích thích tâm ý phát khởi nghi tình mà kiến tính – khai ngộ.

          Tư tưởng của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh

          Các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam đều công nhận rằng, một trong những xu hướng tư tưởng quan trọng của Phật giáo Việt Nam là tinh thần dung hợp, Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh cũng không đi ra ngoài quy luật này. Căn cứ những gì còn lưu lại của các bậc tổ sư, thiền sư, đại sư và sinh hoạt thiền môn trong các tự viện thuộc hệ thống truyền thừa của thiền phái này, chúng tôi khái quát những đặc điểm tư tưởng chính của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh như sau:

          Tư tưởng ngộ thiền đắc pháp: Tư tưởng này hoàn toàn phù hợp với tông chỉ ngộ tâm xuyên suốt của Tổ sư Thiền của Thiền tông Trung Hoa. Do đó, có thể thấy rằng ít nhiều trong vấn đề tu chứng, ngộ đạo của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh cũng chịu sự ảnh hưởng nhất định quan điểm tư tưởng cũng như tiến trình tu chứng từ tông Lâm Tế. Tinh thần thiền học này, chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay nơi bài kệ truyền thừa của ngài Minh Hải “Hiểu thấu pháp chân thật/Ấn chân như hiện tiền”, rõ ràng so với triết lý Thiền “Bất lập văn tự, Trực chỉ chân tâm, Kiến tính thành Phật”, do Tổ Bồ Đề Đạt Ma chủ trương lập nên và ngài Huệ Năng kế thừa có sự tương đồng không khác. Làm thế nào để nhận chân bản tánh giác ngộ sẵn có ở nơi mỗi chúng sinh, khi biết hồi quan phản chiếu vào bên trong tâm ý của chính mình, thì sẽ thấy được tánh mà thành Phật? Do đó, tánh ở đây chính là trí tuệ sáng suốt, trí tuệ của bát nhã, làm chủ thân tâm của tự thân mà thành tựu chứng ngộ. Vì thế, việc hành thiền chính là đạt được Phật tính, thấy được tâm Phật ở ngay nơi tâm mình, là chủ thể của nhận thức và đương nhiên phương tiện nhận thức cũng chính là tâm. Chính vì thế, quá trình ngộ thiền đắc pháp là quá trình trực giác, nằm ngoài mọi giáo lý căn bản, lời nói và tư duy phân biệt, chỉ cốt yếu thể nhập nơi sự thiền cơ lý thiền mà có được giác ngộ. Điều này đã được các vị thiền sư trong Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh kế thừa tiếp nối không ngừng tư tưởng chính yếu này như Minh Hải – Pháp Bảo, Toàn Nhật – Quang Đài, thời kỳ cận đại có Thiền sư Thanh Từ, Duy Lực… đều là những bậc ngộ đạo và công lao truyền bá tinh thần thiền học này.

          Tư tưởng dung hợp Thiền Tịnh Giáo Luật Mật: Thế kỷ XVII, Phật giáo Đại Việt với xứ Đàng Trong, dòng thiền Lâm Tế được truyền vào vùng đất Thuận Hóa thông qua các vị Tăng từ Trung Hoa sang theo sự thỉnh cầu các chúa Nguyễn. Các vị Thiền sư như Viên Văn – Chuyết Chuyết, Nguyên Thiều – Siêu Bạch, Minh Hải – Pháp Bảo,… được xem như những nhân vật có công đem tư tưởng, triết lý của Thiền phái Lâm Tế bén rễ và định hình tại xứ Đàng Trong. Đặc biệt, với tư tưởng “Lâm Tế thống khoái”, ngay từ buổi đầu các vị thiền sư Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đều tích cực chủ trương tinh thần dung hợp giữa các hệ tư tưởng, triết lý đưa đến ngộ đạo trong Phật giáo. Các hành giả tu Mật tông thì bàn bạc về hữu – vô nhiều hơn trì chú, các vị thiền sư thì cũng không hề có sự kỳ thị Mật tông hay Tịnh độ, trước hoặc sau mỗi thời thiền định đều có tổ chức tụng kinh, niệm Phật hoặc thuyết pháp1. Đó chính là sự kết hợp đan xen giữa các yếu tố Thiền định, Tịnh độ, Giáo lý, Luật nghi và Mật chú để phù hợp với bối cảnh, điều kiện xã hội bấy giờ. Đặc biệt, với tinh thần chủ trương tu tập như thế của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, hệ quả tích cực chẳng những thích ứng được với tâm ý của những cư dân bấy giờ tại vùng đất Quảng Nam mà còn làm xuất hiện thêm các hệ thức tín ngưỡng mới trong sinh hoạt tôn giáo của cư dân tại đây như tín ngưỡng Di Đà, quy kính Tịnh độ,…

          Bên cạnh đó, việc truyền dạy cho các đệ tử của Thiền phái, cũng như vấn đề hoằng hóa trong đời sống tâm linh của cư dân, các phương thức truyền đạt, giáo hóa đều chỉ mang tính chất thuần túy về Phật giáo cơ bản như: Dung hợp tư tưởng Thiền và Tịnh độ, tổ chức các giới đàn truyền giới, thuyết giảng, dịch kinh, lấy pháp niệm Phật để tu hành cầu sinh Tịnh độ. Ở phương diện đời sống tự thân thì các vị thiền sư “ngày ăn một bữa, xa lìa tài sắc, không màng đến chuyện thế sự, thường xem kinh luật, tinh tấn cầu đạo, tụng chú Đại Bi một tạng, đảnh lễ Tam Thiên, Vạn Phật, Hồng Danh mỗi loại năm lần, đem thiện căn này cầu cho tội chướng tiêu trừ, sớm thành Phật đạo”2, bên cạnh đó các Ngài còn viết sách, dịch kinh để hoằng truyền Phật pháp.

          Tiêu biểu như Thiền sư Pháp Chuyên – Luật Truyền – Diệu Nghiêm (1726-1798) với tác phẩm Đại phương tiện Phật báo ân hiếu nghĩa, Địa Tạng Bồ tát bản nguyện kinh yếu giải, ngài Toàn Nhật Quang Đài (1757-1834) với tác phẩm Tam giáo nguyên lưu ký, ngài Bích Liên, ngài Khánh Anh, với nhiều trước tác, dịch thuật khác nhau bằng chữ Hán, chữ Nôm, thời cận đại có Thiền sư Thanh Từ, Thiền sư Duy Lực… đó đều là minh chứng cụ thể. Đặc biệt, việc các thiền sư trong sự hành đạo, giáo hóa đồ chúng tu học qua các phương thức truyền đạt tư tưởng triết lý, hầu hết đã không còn mang yếu tố thuần túy về triết lý thiền của Thiền tông, cụ thể là dòng thiền Lâm Tế với các pháp tham thiền công án, thoại đầu đều là các phương thức tu niệm truyền thống và chính yếu trong tông Lâm Tế tại Trung Quốc nhưng không được các vị Thiền sư Lâm Tế Chúc Thánh nhắc đến và tổ chức tu hành trong giới đệ tử. Chủ yếu chỉ là sự truyền thừa trao kệ tiếp nối Thiền phái cho đệ tử và đặt pháp danh, pháp hiệu cho đệ tử theo thứ tự các chữ trong bài kệ truyền pháp, không còn được diễn ra đúng theo phương thức truyền tâm ấn tâm nữa. “Minh Thiệt Pháp Toàn Chương/ Ấn Chơn Như Thị Đồng/ Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu/ Kỳ Quốc Tộ Địa Trường/ Đắc Chánh Luật Vi Tông/ Tổ Đạo Giải Hành Thông/ Giác Hoa Bồ Đề Thọ/ Sung Mãn Nhơn Thiên Trung”. Và rõ ràng, bài kệ truyền thừa của Thiền phái bao gồm có 40 chữ với 8 câu và chia làm hai phần. Phần đầu gồm 4 câu đầu được dùng để đặt pháp danh và phần 4 câu sau dùng đặt pháp tự trong vấn đề truyền thừa tiếp nối tư tưởng của Thiền phái Chúc Thánh từ lúc sáng lập cho đến tận ngày nay nhất quyết đều thể theo truyền thống này của Thiền phái.

          Tinh thần dung hợp Phật – Nho: Hòa trong xu hướng dung hợp, giao thoa với sự tương tác giữa Phật và Nho, có thể thấy rằng Phật giáo Đàng Trong thời các chúa Nguyễn chính sự kết hợp nhuần nhuyễn, tạo nên một phong cách đặc biệt trong giới cầm quyền lãnh đạo cũng như biểu hiện trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt, quan điểm này chúng ta dễ dàng nhận thấy qua cuộc đời học đạo và tu đạo của các vị thiền sư trong Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, đa phần các vị thiền sư ngoài sự tinh thông về Tam tạng giáo điển Phật giáo, các Ngài còn thông thuộc chữ Hán; nhờ đó hầu hết các vị đều viết sách, dịch kinh… Tiêu biểu như Thiền sư Pháp Chuyên – Luật Truyền – Diệu Nghiêm (1726- 1798) với tác phẩm Đại phương tiện Phật báo ân hiếu nghĩa, Địa Tạng Bồ tát bản nguyện kinh yếu giải, ngài Toàn Nhật – Quang Đài (1757-1834) với các tác phẩm Hứa Sử truyện vãn, Tống Vương truyện, Lục Tổ  truyện diễn ca, Xuất gia tối lạc tỉnh thế tu hành vãn, đặc biệt tác phẩm Tam giáo nguyên lưu ký do Ngài trước tác, chính là sự mô tả rất chân thật tinh thần tương quan, dung hợp của Phật – Nho trong con người của vị Thiền sư: Ta xưa cũng dự Nho gia/ Mười hai tuổi học đến ba mươi rày/ Hỏi thăm năm bảy ông thầy/ Không ai tỏ đặng tánh trời huyền môn/ Tông nguyên uẩn áo thánh nhân/ Cũng là chân lạc hạo nhiên để truyền/ Sau ta đầu học phép thiền/ Thuở ba mươi tuổi vậy liền xuất gia3.

          Bên cạnh đó, chúng ta thấy sự dung hòa tư tưởng giữa Phật – Nho còn được thể hiện qua lối kiến trúc thờ tự trong các ngôi chùa, tự viện thuộc môn phái của Lâm Tế Chúc Thánh. Cụ thể như chùa Diệu Giác ở Quảng Ngãi, ngoài gian chính ở giữa thờ đức Phật A Di Đà đang ngồi thiền định, bên phải là Đại Thế Chí, bên trái là tượng Quan Âm Bồ Tát. Có một án thờ Đức Khổng Tử, một pho tượng bằng gỗ, phía hữu thờ Quan Công, Chu Thương và Quan Bình cùng ngựa xích thố,… Đó đều là những hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần dung hợp giữa hai tôn giáo bấy giờ trong quan điểm tư tưởng để hưng thịnh phát triển Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh của các vị thiền sư.

          Tư tưởng Phật giáo bình dân: Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh chú trọng cách phát triển Phật giáo bình dân đại chúng, được thể hiện rõ nét nhất ở nơi hình ảnh các vị thiền sư cùng với cư dân chung tay khai vỡ đất hoang, tạo lập cuộc sống, tu bổ nhà chùa, hoằng dương Phật pháp, giúp người dân vượt qua khó khăn hoạn nạn, góp phần ổn định cuộc sống. Cụ thể, một Phật giáo bình dân được thực thi trong đời sống cư dân, chẳng câu nệ lễ nghi, hình tướng, bởi “Họ cần trước hết là những bài học về đạo đức làm người, cụ thể, giản dị và sinh động chứ không phải là sự nghiền ngẫm thiên kinh vạn quyển với vô số triết lý cao siêu. Và, Phật giáo với đội ngũ các nhà tu hành nhiệt huyết nhập thế một cách tích cực đã mau chóng đáp ứng điều này. Ở đâu có đất mới được mở ra là ở đó có chùa mới dựng. Tiếng chuông chùa và tiếng tụng kinh chẳng khác gì lời ru êm ái đối với một xã hội lầm lũi”4. Và đương nhiên, “nhu cầu cần có thầy cầu an khi đau ốm và cầu siêu khi qua đời là một đòi hỏi bức bách của lưu dân. Tín ngưỡng Phật giáo đã đáp ứng được nhu cầu ấy và tạo tiền đề để đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển nhanh chóng của nhiểu ngôi chùa lúc bấy giờ”5. Đó đều là sự thiết lập cần thiết cho sự có mặt của Phật giáo với ư nghĩa đồng hành cùng cư dân tích cực xây dựng, ổn định đời sống về vật chất lẫn yếu tố nhu cầu tinh thần trong giai đoạn này. Thiền sư Toàn Nhật trong Hứa Sử truyện vãn, khi mô tả về cuộc sống xuất gia “thầy sãi” đã dùng những hình ảnh vô cùng gần gũi đời thường “Mà ta thảy thảy bỏ đi/ Chịu phần thầy sãi cơ nguy bần hàn/ Ăn thời rau cháo tương dưa/ Hằng ngày hành khất thôn hương trong người/ Bố thô áo mới tả tơi/ Bạ đâu ở đó như người khất thân”6. Và đương nhiên, với cuộc sống như thế rơ ràng đă tạo cho Thiền sư Toàn Nhật một cuộc sống có điều kiện để gần gũi nhân dân, thể nghiệm được những giá trị của cuộc sống tự do mang lại, chẳng vướng bận lo toan, ḷng chỉ hướng và lư hội những ư nghĩa thực thụ của cuộc sống, mà sau này thơ văn của Ngài trước tác đều ẩn chứa tư tưởng triết lư đời thường như thế.

          Tư tưởng nhập thế hộ quốc an dân: Đây là tư tưởng xuyên suốt của Phật giáo Việt Nam nói chung, Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh nói riêng. Tư tưởng quan trọng này, chúng ta dễ dàng nhận thấy thông qua bài kệ truyền thừa do ngài Minh Hải – Pháp Bảo biệt kệ lập nên trong Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh. Đương nhiên, bài kệ truyền thừa này ít nhiều đã khẳng định được tâm ý, tư tưởng của Thiền phái luôn gắn bó, đồng hành cùng với dân tộc, đất nước “Chúc thánh thọ thiên cửu, Kỳ quốc tộ địa trường, nghĩa là Cầu Thánh quân tuổi thọ, Chúc đất nước vững bền”. Điều này, tất nhiên phù hợp với bối cảnh lịch sử, đất nước bấy giờ. Một đất nước yên bình, thịnh trị, đời sống nhân dân ấm no sung túc về mọi mặt cũng có nghĩa do sự lãnh đạo của các bậc vua chúa chính quyền mang lại. Vì thế, sự đồng hành giữa các vị thiền sư Phật giáo cùng với dân tộc, đất nước trong tinh thần “hộ quốc an dân”, chính là sự kết nối giữa đạo pháp và dân tộc, giữa các vị Tăng sĩ với tín đồ quần chúng mà từ đó Thiền phái đã tạo nên những dấu ấn đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đưa đạo Phật không những ngày càng được thấm nhuần trong đời sống nhân dân mà còn thể hiện qua sự mến mộ, tôn kính của các chúa Nguyễn bấy giờ đối với Phật giáo. Song, ngoài việc tu hành chứng ngộ tâm linh, các thiền sư của Thiền phái Chúc Thánh còn chủ trương tinh thần nhập thế tích cực với ý niệm vô nhiễm, vô chấp. Điều này được thể hiện qua cuộc đời của Thiền sư Pháp Chuyên, thế hệ thứ 3 dòng thiền Chúc Thánh, Thiền sư Vĩnh Gia, thế hệ thứ 6 của dòng thiền Chúc Thánh… đều là những nhân vật tiêu biểu cho tinh thần phụng sự của Thiền phái đối với đạo pháp, dân tộc. Đặc biệt, tiếp nối gương sáng của các bậc cổ đức, các thế hệ tăng đồ dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh luôn nỗ lực nhiệt tâm tham gia vào các phong trào đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc và tự do cho dân tộc. Hình ảnh Bồ tát Quảng Đức, một vị đệ tử thuộc Thiền phái tự thiêu để phản đối chính sách độc tài tôn giáo là một minh chứng cụ thể cho tinh thần này. Và đương nhiên, dù ở trong thời đại nào hay bất cứ hoàn cảnh ra sao thì tinh thần nhập thế đồng hành cùng với quần chúng nhân dân của Thiền phái Chúc Thánh vẫn luôn được duy trì và không ngừng phát triển. Các công tác từ thiện, phúc lợi xã hội… được thực hiện, tổ chức trong Phật giáo hiện nay, đâu đó vẫn có sự đóng góp của thế hệ con cháu của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.

          Pháp tu của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh

          Căn cứ chính để bàn đến phương pháp tu tập của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh là tư tưởng chủ đạo cũng như đời sống sinh hoạt thiền môn của Tăng Ni trong hệ thống tự viện thuộc thiền phái. Dưới đây là những phương pháp tu tập phổ biến nhất của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh

          Học thiền, tu thiền, tọa thiền theo tông chỉ tông Lâm Tế: Có thể thấy rằng, phương thức tu tập này khá phổ biến trong đời sống sinh hoạt thiền môn của các ngôi chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh không những ở những giai đoạn trước đây, mà hiện nay hình thức và pháp tu này vẫn còn được duy trì và phát triển theo tông chỉ của dòng Lâm Tế. Tựu trung, vấn đề cốt yếu trong sự tu tập cá nhân của một người xuất gia là làm chủ được tâm ý và thân tâm của mình trong đời sống hằng ngày, nghĩa là kiến tính, ngộ đạo, thấy được bản tánh chân thật, sáng suốt của tâm thức mình mà bừng sáng trí tuệ chứng ngộ. Muốn vậy, phương thức tu niệm của vị hành giả không gì khác hơn ngoài tinh thần thực tập giáo lý thiền học thể hiện qua các hành động cụ thể như hành, trụ, tọa, ngọa (đi, đứng, nằm, ngồi), nhất quyết đều biểu hiện được nội dung ý nghĩa cương yếu của phương pháp tu tập này. Mục đích cuối cùng là đốn ngộ tự tâm, thông suốt Phật lý.

          Kết hợp tọa thiền niệm Phật (Thiền Tịnh song hành): Phương pháp thực tập này không gì khác hơn chính là sự kết hợp đan xen giữa yếu tố Thiền học và triết lý Tịnh độ trong tu niệm hằng ngày của các hành giả như ngồi thiền niệm Phật đếm từ 1 đến 10. Điều này, chúng ta dễ dàng có thể thấy được từ sự tu tập của các vị thiền sư lúc bấy giờ trong thiền phái và hiện nay trong các ngôi chùa thuộc môn phong Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, đều có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố Thiền định và Tịnh độ theo tinh thần chủ trương Thiền-Tịnh song tu trong tinh thần tu tập tự thân và tổ chức hướng dẫn đạo tràng, khóa tu,… Nhờ đó, sự vận dụng kết hợp giữa các yếu tố Thiền-Tịnh này đã đem lại sự lợi lạc cho các hành giả và tha nhân. Về tự thân, các Thiền sư đạt được sự an lạc do thiền định đem lại, thân tâm an lạc, nội lực tăng trưởng nên thấy rõ thật tướng của mọi sự, mọi việc hay nói cách khác là kiến tính, ngộ đạo. Đối với tha nhân và các tầng lớp tín đồ, Phật tử chính là sự tương thích phù hợp căn cơ tu đạo của chính mình trong tu niệm; từ đó mà thanh lọc được thân tâm, chuyển hóa tâm ý để bình an, lợi lạc theo mong ước tự thân.

          Tụng kinh niệm Phật kinh hành (Thiền giáo tịnh hành): Pháp tu niệm này được các thiền sư trong Thiền phái Chúc Thánh thể hiện một cách cụ thể qua các phương thức chính yếu như tụng đọc kinh văn (bao hàm Kinh văn của cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Đại thừa), trì chú, lạy Phật sám hối nghiệp căn theo triết lý pháp môn Tịnh độ, đồng thời thực tập thiền định, tham thoại đầu, công án, vấn đạo,… để thấu rõ tâm ý kiến tính ngộ đạo nhưng cũng cần cầu thầy mình ấn chứng sở đắc theo truyền thống Thiền tông. Đặc biệt, sau các thời khóa Tịnh độ hay thực tập thiền tọa, trong các thiền môn của thiền phái đều có tổ chức kinh hành niệm Phật theo phương cách niệm thành tiếng hoặc thiền hành niệm Phật nhẹ nhàng. Đó đều là những cách tu niệm mà chúng ta dễ dàng nhận thấy trong các đạo tràng, tự viện hiện nay của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.

          Thọ trì tuân giữ giới Luật: Truyền thống tu tập trong Thiền môn của Phật giáo Trung Hoa luôn chú trọng tinh thần thượng tôn giới luật do đức Phật chế định. Chính vì thế, mặc dù trong hệ thức tư tưởng tu tập của giới xuất gia cũng như tại gia, dù phân chia thành các tông phái khác nhau trong vấn đề tư tưởng nhưng giữa các tông phái này đều chủ trương tính thiết yếu của giới luật đối với đời sống tu niệm tự thân và giáo hóa tha nhân. Do đó, chúng ta cũng không lấy gì lạ khi trong dòng kệ truyền thừa, ngài Minh Hải – Pháp Bảo, đặc biệt chú trọng đến tinh thần giữ giới và hành trì luật nghi trong thiền phái Giới luật nêu trước tiên. Điều này, tất nhiên phù hợp với lộ trình tu chứng của một vị hành giả được thể hiện qua đạo lộ giới – định – tuệ, tam vô lậu học trong Phật giáo, bởi tâm ý của một vị hành giả rất dễ buông theo các ngoại duyên trần cảnh, đắm nhiễm các dục; vì thế việc thực hành giữ gìn các giới điều đã thọ lãnh chẳng những bảo hộ đời sống xuất gia lẫn tại gia của hành giả tu tập được trọn vẹn và đầy đủ phạm hạnh mà còn tuân thủ nếp sống thanh tịnh, hòa hợp trong đồ chúng Tăng đoàn Phật giáo. Đương nhiên, tinh thần này trong Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh được biểu hiện rất cụ thể qua đời sống tu đạo và hành đạo của các vị thiền sư. Tiêu biểu nhất có thể nhắc đến ngài Pháp Chuyên – Luật Truyền – Diệu Nghiêm cùng đệ tử Thiền sư Toàn Nhật – Quang Đài đều là những bậc nổi bật về công hạnh hành trì giới luật nổi tiếng trong Thiền phái Chúc Thánh bấy giờ. Đặc biệt, những trước tác liên quan đến giới luật cũng như việc giảng dạy về giới luật cho đồ chúng lúc bấy giờ của các vị thiền sư đều rất được chú trọng cho các vị đệ tử xuất gia lẫn tại gia, năm Kỷ Dậu (1789), bấy giờ có thầy Hữu Nguyện và những người khác xin giảng Sa Di oai nghi tăng chú. Đến năm Ất Mão (1795), người ta lại xin giảng Tỳ ni sa di oai nghi cảnh sách. Như thế, ngài Pháp Chuyên xem như vị thiền sư có công lao xiển dương giới luật qua việc giảng dạy và đương nhiên Thiền sư Toàn Nhật là bậc trước tác, chú giải luật nghi qua các tác phẩm Sa di oai nghi tăng chú giảo nguy tự tiểu thiên, Giới hành đồng từ,… đều đại diện tiêu biểu cho tinh thần chú trọng giới luật Phật chế trong Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh được các vị thiền sư chú trọng giữ gìn và xiển dương giáo hóa.

          Tụng kinh, trì chú, cầu nguyện (Mật giáo tịnh hành): Phương pháp tu tập này, chúng ta rất dễ thấy trong các ngôi tự viện ngày nay qua các khóa lễ, nghi thức sinh hoạt thiền môn hằng ngày. Đa phần trong các thời khóa tụng luôn có sự kết hợp giữa các yếu tố Mật giáo và triết lý Tịnh độ, hồi hướng cầu nguyện… Đây được xem như là phương pháp chính thống và thiết yếu nhất để vị hành giả thông qua ý nghĩa tu tập mà có sự kết hợp, cộng hưởng được niềm tin sức mạnh giữa tinh thần tự lực của chính mình và sự gia hộ chở che của oai thần tha lực biểu đạt qua ý nghĩa tụng kinh, trì chú trong Phật giáo chủ trương mỗi cá nhân phải luôn nỗ lực tinh cần thực hành lời Phật dạy thông qua hình thức trì tụng kinh văn, ghi nhớ những lời Phật dạy trong kinh để chuyển hóa thân tâm, thanh lọc tâm ý và hơn hết là trừ diệt phiền não cấu nhiễm nơi tâm ý để được lợi lạc an ổn trong đời sống hằng ngày. Tâm ý của chúng sanh luôn vọng động, thay đổi không ngừng trong từng sát na sinh diệt, do đó việc tụng kinh, trì chú được chú trọng thực hành tu tập, chính là phương cách hữu hiệu nhất để vị hành giả chuyên tâm chánh niệm thông qua việc trì tụng kinh chú và hồi hướng cầu nguyện. Chính vì thế, những phương thức tu niệm này đương nhiên rất dễ dàng thích hợp với nhiều đối tượng để thực hành tu tập, cốt yếu vẫn là giúp vị hành giả từng bước thực tập, làm chủ được tâm ý của mình thông qua ba nghiệp, thân ngồi trang nghiêm ngay thẳng, miệng trì tụng lời kinh, và ý chuyên nhất vào câu kinh, mật chú đó để chánh niệm tịnh hóa tự thân.

          Tạm kết

          Từ lúc Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh được Tổ Minh Hải – Pháp Bảo khai tông lập phái đến nay đã trải qua khoảng thời gian hơn ba thế kỷ, tôn chỉ tư tưởng và yếu nghĩa hành đạo, tu đạo của thiền phái vẫn luôn được chú trọng duy trì và ngày càng xiển dương phát triển. Được nhiên trong sự vận hành, biến thiên của lịch sử Phật giáo Việt Nam, mỗi hệ phái, dòng thiền tất yếu cũng đều sẽ chịu chung quy luật biến đổi, tồn sinh để thích ứng với thời đại, xã hội, con người và văn hóa Việt Nam. Song Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh vẫn luôn đứng vững cùng với đạo pháp, dân tộc và đất nước Việt Nam, góp phần bảo lưu, gìn giữ những giá trị tốt đẹp từ công đức của Tổ sư khai sơn, truyền pháp, Thiền phái Chúc Thánh qua nhiều thời kỳ lịch sử; nhất là về phương diện tư tưởng thiền học và pháp môn tu tập tiêu biểu của thiền phái được biểu hiện không những qua thời gian đầu lập phái mà đến ngày hôm nay vẫn còn được duy trì và phát triển hưng thịnh. Đóng góp tích cực vào sự truyền bá Phật pháp không những tại Quảng Nam mà còn ảnh hưởng lan tỏa đến các vùng đất khác. Ở một phương diện nhất nhất định, có thể nói dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh có sự truyền thừa và ảnh hưởng không nhỏ đối với sinh hoạt của Phật giáo các tỉnh miền Trung và miền Nam cũng như lan rộng đến nhiều nước trên thế giới. Vì thế, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống về tư tưởng và phương pháp tu hành của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh là rất cần thiết. Và những suy nghĩ của chúng tôi ở tham luận này mới chỉ là những bước cố gắng ban đầu./

TS. THÍCH HẠNH TUỆ
HVCH THÍCH TÂM CHÁNH

 

 

_Chú thích:

1. Dẫn lại Phạm Thị Thu Loan (2019), Tư tưởng Thiền tông thời đại Lý – Trần trong xã hội hiện đại trong Nghiên cứu Phật học, Viện Văn học, Hà Nội, tr. 98.
2. Lê Mạnh Thát (2005), Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài, tập 1, Nxb. Tổng hợp TP. HCM, tr. 31.
3. Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài, tập 1, sđd, tr. 18.
4. Nguyễn Khắc Thuần (2005), Đại cương Lịch sử văn hóa Việt Nam, Tập II, Nxb. Giáo dục, tr. 156.
5. Trần Hồng Liên (2004), Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 15.
6. Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài, tập 1, sđd, tr. 32.