Tính chất Phật giáo đại chúng của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh (Tỳ kheo Thích Đồng Bổn)

          Ngày nay, những hành giả của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh (TPLTCT) đã phát triển và có mặt sinh hoạt ở hầu hết các pháp môn hệ phái, các vùng miền trong và ngoài nước Việt Nam. Điều đó nói lên tính chất phổ quát của công cuộc truyền thừa mang tính đại chúng để phổ cập của thiền phái trong đời sống sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam. Để đạt được những thành quả đó sau hơn thế kỷ truyền thừa, chúng ta cần tìm hiểu những đặc tính của Thiền phái Chúc Thánh, thể hiện qua các yếu tố Không và Có thể hiện trong quá trình sinh hoạt truyền bá lan tỏa qua các vùng miền khắp các địa phương để sinh sôi phát triển.

          Trước tiên, chúng tìm hiểu về những điều vốn không có ở thiền phái này:

          A. Những điều Không

          1- TPLTCT không cố tạo những mối quan hệ với tầng lớp thượng lưu

          Đúng là như vậy, lịch sử truyền thừa đã cho thấy thay vì chọn vùng đất kinh kỳ của vương triều Nguyễn, thì Tổ Minh Hải Pháp Bảo lại chọn đất Quảng Nam, nơi cách xa vương triều bởi một con đèo Hải Vân hùng vĩ nhất nước. Vị trí con đèo ngăn cách đường bộ, tràn ra đến tận biển, đã làm cho khí hậu cũng khác, tiếng nói vùng miền cũng khác và văn hóa lối sống của người dân cũng đã khác xa với chốn kinh kỳ. Trong suốt quá trình hành đạo truyền thừa ở vùng đất này đến khi viên tịch, Tổ sư cũng Không hề dâng sớ mong cầu triều đình các chúa Nguyễn giúp đỡ hay tặng phong gì, mà chỉ chăm lo hóa độ dân chúng ở địa phương mà Tổ đã chọn lựa hành đạo đến trọn cuộc đời.

          Các thế hệ truyền thừa của Tổ, riêng ở đất Quảng Nam, hầu như Không có vị Tăng nào mặn mòi với việc lân cận triều đình, hay có ý niệm cầu được sắc phong chức vị Tăng cang hoặc nhận ban giới đao độ điệp như các địa phương khác được phúc duyên này. Có lẽ, chính ở sự thanh bần trong sạch của Tổ làm gốc rễ, mà quần chúng đã ủng hộ quy tụ về làm nên sự nghiệp hưng thạnh của thiền phái.

          2- TPLTCT không có chủ trương gắn kết với chế độ chính trị nào

          Trải qua các triều vua quan từ các chúa Nguyễn đến các triều vua nhà Nguyễn, rồi đến thể chế chính quyền miền Nam Việt Nam. Thế nhưng những hành giả hậu bối của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh vẫn quyết Không để lòng nghiêng ngả hay xu hướng theo những thế lực chính trị đương thời nào. Chúng ta có thể thấy ý nghĩa này qua cuộc Pháp nạn Phật giáo năm 1963 và những năm sau đó, con cháu dòng Chúc Thánh không theo giáo hội nào hay thế lực chính trị nào của miền Nam trong giai đoạn bị chia cắt đất nước.

          Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, tuy hàng ngũ tăng lữ Phật giáo bấy giờ có những tâm trạng phân vân, nhận thức khác nhau về thái độ chính trị khi đứng trước thời buổi xã hội sau chiến tranh còn rối ren, lòng người chưa ổn định. Thế nhưng, hầu hết hàng hậu bối của Tổ Minh Hải – Pháp Bảo vẫn kiên định với tôn chỉ tu hành là Không tự cho mình đứng ở góc độ trái với quan điểm lãnh đạo của Nhà nước, bởi vì lý tưởng ấy đã đem lại độc lập nước nhà, xã hội tự do và đời sống hạnh phúc cho nhân dân, thì con cháu Tổ có trách nhiệm chấp hành đường lối lãnh đạo và luật pháp hiện hành, góp phần trách nhiệm của môn phái mình, bằng sự nghiệp tu hành chân chánh và nghiêm túc, để xứng đáng với lòng tin tưởng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.

          Trên quan điểm này, chúng ta nhìn nhận lại quan điểm của hai vị danh tăng thuộc dòng Chúc Thánh, đã luôn sống trung thành theo lý tưởng này, đó là hai vị Hòa thượng danh tăng: Ngài Long Trí ở Quảng Nam và ngài Huyền Quang ở Bình Định. Cả hai vị tuy vẫn nặng lòng với giáo hội cũ, dù Không hợp tác với giáo hội mới, nhưng các ngài cũng Không hề có thái độ bài xích hay chống đối, mà ngược lại trong thâm tâm các ngài luôn ủng hộ nền thể chế đã đem lại nền độc lập cho nước nhà, tự do cho xã hội.

          3- TPLTCT không tham vọng lãnh đạo hay đứng trên giáo hội nào

          Kế thừa tư tưởng của Tổ sư là lấy thực chất tu tập làm gốc, nên hàng hậu bối của thiền phái đều Không chủ trương theo về với một tổ chức Phật giáo nào, và Không có ý niệm thiền phái của mình phải đứng trên một tổ chức giáo hội nào. Đó cũng là điểm đặc thù của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh là tinh thần Phật giáo đại chúng khi du phương hành đạo, đem tư tưởng này của Tổ sư truyền bá lan tỏa đi khắp mọi chân trời.

          Hiện nay, mặc dù con cháu của thiền phái ở khắp cả năm châu, phải tùy thuận theo những thể chế xã hội khác nhau, sinh hoạt hành đạo theo những tổ chức giáo hội khác nhau, nhưng vẫn Không có tư tưởng nắm giữ quyền bính lãnh đạo các tổ chức Phật giáo ấy, đó là tiêu điểm của hành giả theo dòng kệ Chúc Thánh.

          4- TPLTCT không tạo phong cách khác biệt trong sự tu trì

          Nói đến dòng Chúc Thánh, có người hỏi đặc điểm hành trì hay pháp môn chuyên biệt của thiền phái là thế nào? Môn hạ của thiền phái có thể hãnh diện nói với mọi người là: Không có gì khác biệt. Vì sao như thế? Tổ sư Minh Hải Pháp Bảo ngoài kế thừa dòng thiền Vạn Phong – Thời Ủy theo bài kệ:” Tổ Đạo Giới Định Tông/ Phương Quảng Chứng Viên Thông/ Hành Siêu Minh Thiệt Tế/ Liễu Đạt Ngộ Chơn Không…”. Xét về tông Lâm Tế thì Ngài là đời thứ 34 và là đời thứ 13 của dòng kệ Vạn Phong Thời Ủy này với chữ Minh; từ đây tại đất nước Việt Nam, ngài đã lập nên dòng Chúc Thánh và biệt xuất bài kệ: “Minh Thiệt Pháp Toàn Chương….” như chúng ta đã biết và thuộc nằm lòng.

          Tông Lâm Tế của chúng ta có cả thảy 4 dòng truyền thừa tại Việt Nam. Trong 4 dòng ấy, hầu như đều sử dụng qua lại cách thức hành trì, mục đích là để bổ sung pháp tu lẫn nhau để cùng phát triển. Với nhu cầu tu tập phù hợp căn cơ của đại chúng, nên pháp tu của dòng Chúc Thánh kế thừa tông chỉ Lâm Tế với sự tổng hợp tinh yếu từ các dòng: Vạn Phong – Thời Ủy với chữ Minh đời thứ 13; dòng Đạo Mân – Mộc Trần với chữ Thành đời thứ 4 và dòng Liễu Quán ở thế hệ kế thừa của Tổ Minh Hải – Pháp Bảo một đời, đồng mang chữ Thiệt từ dòng Chúc Thánh và chữ Thiệt của ngài Thiệt Diệu Liễu Quán.

          Qua đó, chứng minh rằng pháp tu của dòng Chúc Thánh là sự dung hợp tổng hòa, Không có sự khác biệt với các dòng phái, bởi cùng chung một gốc rễ Lâm Tế mà ra, vì thế các dòng đều sử dụng từ Lâm Tế Chánh Tông đứng trước dòng kệ của mình, để ứng hợp theo nhu cầu tu học của nhân dân tín đồ tại xứ sở này.

          5- TPLTCT không ràng buộc chặt chẽ trong sứ mệnh truyền thừa

          Có nhiều sơn môn coi trọng việc truyền thừa để không mất mạng mạch của sơn môn pháp phái, vì thế có tình trạng chùa của dòng phái này, tổ đình của sơn môn nọ. Thế nhưng, đối với Thiền phái Chúc Thánh, việc truyền thừa Không quan trọng bằng đức độ hành trì của hành giả trên bước đường hành đạo giải thoát. Ta có thể nhìn qua lịch sử, sự nối truyền ngày nay của dòng Chúc Thánh ở các địa phương bắt nguồn từ sự hành đạo nghiêm trì, đức độ lan tỏa của chư tôn thiền đức, bước đầu ở núi non, hang động, khi có đệ tử tín đồ đông nhiều thì lớp hậu thế mới xây dựng thành chùa chiền làm nơi chốn tiếp Tăng độ chúng. Bản thân các bậc cao đức ấy là thu xếp lên đường hóa duyên ở những phương trời vô định, mà Không quan tâm đến việc nắm giữ cố định. Các ngài phó mặc cho Tam bảo tùy duyên lựa chọn sự kế thừa.

          Có những ngôi chùa, khi không còn ai kế thế hoằng truyền, thì họ mời các thiền sư dòng Chúc Thánh về trông giữ, rồi các vị ấy đủ duyên hóa đạo dài lâu tại nơi này. Cũng có những ngôi chùa của dòng phái, nhưng khi thế hệ kế thừa chưa đủ tài đức, thì các thiền sư dòng Chúc Thánh cũng sẵn sàng mời các thiền sư ở thiền phái khác tiếp nối hoằng truyền theo nguyên tắc “Truyền hiền chứ không truyền tử”.

          Một vấn đề Không nữa là nét dị biệt trong sự truyền thừa ở từ phương Nam. Tổ Khánh Anh (1895-1961), ngài pháp danh Chơn Húy thuộc thế hệ thứ 7 Thiền phái Chúc Thánh. Khi Tổ vào phương Nam hoằng hóa, đệ tử của Tổ là Hòa thượng Thích Thiện Hoa, vốn thuộc thế hệ chữ Như đời thứ 8. Nhưng khi tu học ở các Phật học đường Lưỡng Xuyên, rồi đến đại học Phật giáo ở Huế trở về, ngài đã theo quan điểm mới, không truyền thừa theo thế hệ của dòng phái xưa kia, mà đặt pháp danh cho đệ tử theo sự ngẫu nhiên. Vì thế đệ tử của ngài là Hòa thượng Thích Thanh Từ đáng lý ra mang thế hệ chữ Thị đời thứ 9, nhưng Hòa thượng chuyên tu pháp môn Thiền tông và lại đặt pháp hiệu cho hàng đệ tử theo từng giai đoạn xuất gia tu học, sẽ có một pháp hiệu khác nhau. Sự truyền bá như thế là đặc thù trong thiền phái Trúc Lâm đương đại của ngài. Dẫu rằng, xuất phát điểm của Hòa thượng Thanh Từ vốn là con cháu của dòng Chúc Thánh nơi Tổ Khánh Anh mà ra.

          B. Những điều Có

          1- TPLTCT có tính chất dung hợp tất cả pháp môn

Chính những yếu tố Không ở trên, đã hình thành nên tính chất Có ở Thiền phái Chúc Thánh, đó là có sự giao thoa để dung hợp các pháp môn tu vào trong đường lối tu tập của thiền phái mình. Đây là một tính chất đặc thù là dung hợp và tổng hòa của Thiền phái Chúc Thánh khi hành đạo trải qua mỗi vùng miền địa phương, tùy duyên và tùy căn cơ của địa phương ấy mà tôn chỉ của thiền phái Có sự biến chuyển cho phù hợp việc truyền bá và truyền thừa.

          2- TPLTCT có tính giao thoa ảnh hưởng cùng các thiền phái khác

Thiền phái Chúc Thánh có bị tác động và ảnh hưởng từ các thiền phái khác hay pháp môn tu hành khác hay không? Chúng tôi nghĩ rằng thiền phái chúng ta chắc chắn Có sự thay đổi để tương thích và tiếp thu ảnh hưởng từ các pháp môn hay thiền phái khác. Bởi từ tôn chỉ ban đầu của Tổ sư, là một thiền phái nội sinh trên đất Việt, sẵn sàng tiếp thu những gì phù hợp căn cơ để làm phương tiện độ sanh, pháp môn nào phù hợp thì tiếp thu để thực hành trên đường giải thoát của mình, thì hành giả của thiền phái đều đã sử dụng nguyên tắc “tùy thuận chúng duyên vô quái ngại” mà không cần cảm nhận vấn đề trở ngại gì trên đường tu học và hành đạo của mình.

          3- TPLTCT có sự lan tỏa truyền bá tự nhiên khắp các vùng miền

Tôn chỉ hành đạo của Thiền phái Chúc Thánh là rất dễ dàng tiếp cận học hỏi, dễ dàng được dung nạp ở khắp các vùng miền Bắc Trung Nam, và hiện nay lan tỏa rộng xa ở hải ngoại. Có thể thấy như:

Chúng ta có một chùa thuộc dòng phái Chúc Thánh được vua Bảo Đại ban Sắc tứ, đó là chùa Sắc tứ Bác Ái ở Kon Tum. Nhưng thực chất, ngôi chùa này do nhân dân đóng góp xây dựng, dưới sự tổ chức kiến trúc của ông Quản đạo Kon Tum tên là Võ Chuẩn, và ông Võ Chuẩn đã trình báo triều đình sự việc xây chùa khi về kinh, vua Bảo Đại đã ban Sắc tứ cho chùa trước khi thỉnh được các thiền sư dòng Chúc Thánh về đây hành đạo trụ trì.

Như thế, nhân dân cảm nhận các thiền sư nào có phương pháp hoằng hóa độ sanh phù hợp địa phương mình, thì họ mở lòng cung thỉnh, chứ các thiền sư dòng Chúc Thánh đã không lựa chọn nơi chốn tu hành hay lựa chọn ngôi chùa được Sắc tứ vua ban mà đến ở.

          4- TPLTCT có ý hướng truyền bá trong tầng lớp bình dân

Tính chất đại chúng của thiền phái đi sâu vào tầng lớp bình dân, bởi tư tưởng hành đạo và giáo nghĩa đơn giản rõ ràng không mang nặng tính thiền lâm bác học. Đó cũng là ưu điểm nhưng cũng là điểm hạn chế khi ta tìm lại một đặc tính riêng biệt của thiền phái.

Những bước chân hóa duyên của các thiền sư từ dòng phái, bắt nguồn từ tôn chỉ tu tập nội tâm để trở thành phong thái đạo đức trong lối sống, rồi rãi lòng từ ra khi hành đạo. Những nơi còn khổ đau bất hạnh, nhân sinh nghèo khó, xa xôi cách trở, cao nguyên, biên thùy, nơi mà nhân dân chưa được khai hóa… thì đó là hướng đến mà các thiền sư dòng Chúc Thánh luôn tiên phong mở đường khai phá giác ngộ cho chúng sanh nơi ấy. Điển hình như ngôi chùa Bác Ái ở KonTum…

          5- TPLTCT có đặc tính riêng của một thiền phái người Việt

Là một thiền phái có yếu tố nội sinh, hiển nhiên sẽ ít nhiều mang các đặc tính của dân cư bản địa, nhất là địa phương nơi Tổ Minh Hải – Pháp Bảo dừng chân hoằng hóa. Những đặc tính ấy chúng ta có thể ghi nhận qua các bản sắc kiến trúc của chùa Chúc Thánh, phong cách bài trí thờ phượng trong chùa tuy rằng ngài là người Hoa, nhưng cũng đã có ít nhiều yếu tố mang tính chất Việt ở trong ấy.

Các ngôi chùa khác của thiền phái, nếu chúng ta để ý sẽ thấy đều không có sự rập khuôn về kiến trúc hay phong cách thờ cúng, ở mỗi ngôi chùa đều mang sắc thái khác nhau theo đặc tính riêng của từng vùng từng địa phương. Trong hệ tư tưởng của các hành giả thuộc thiền phái trải qua các vùng miền, trong tư duy của họ cũng không mang tính rập khuôn hay duy nhất nào cả, mà dòng Chúc Thánh đã là một phong cách “dĩ phương tiện tùy nghi độ chúng sanh”.

Trên đây là khái quát một số nhận định tính chất Có và Không, có thể gọi là tính chất điển hình ở Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, đã và đang được hoằng truyền trên đất nước Việt Nam và hải ngoại.

Từ các yếu tố đã nêu trên đây làm cơ sở, chúng ta cần khai thác tìm hiểu thêm nữa qua các cuộc hội thảo, tọa đàm, lý luận, diễn thuyết của nhiều trí thức học giả, nhiều thiền sư trong thiền phái và các hành giả con cháu của Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo, để tiến đến nhận thức chung đâu mới là tôn chỉ thật sự của thiền phái, thế nào là giá trị cốt lõi của dòng Chúc Thánh đã góp phần hành đạo của mình vào tiến trình lịch sử truyền thừa của các dòng phái trong lòng Phật giáo Việt Nam thời cận và hiện đại.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 24/10/2020

Tỳ kheo THÍCH ĐỒNG BỔN