Từ xưa đến nay, hai khái niệm văn hóa và tôn giáo luôn có mối quan hệ khắn khít, mật thiết với nhau. Ở nước ta cách đây nhiều năm, trong một bài viết của mình, Giáo sư Trần Quốc Vượng từng khẳng định: “Tôn giáo và/là văn hóa”. Trong giới nghiên cứu văn hóa – nghệ thuật, những khái niệm “Văn hóa Phật giáo”, “Văn hóa Thiên Chúa giáo”… ngày càng phổ biến.
Dưới góc độ văn hóa, khi nghiên cứu bất kỳ một hiện tượng văn hóa, một không gian (địa) – văn hóa, một nền văn hóa nào, không thể không nghiên cứu tôn giáo – lĩnh vực chứa đựng những giá trị tinh thần như chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, nhu cầu về tín ngưỡng của con người. Bởi vì văn hóa theo nghĩa rộng bao gồm cả tôn giáo. Tôn giáo là hiện tượng văn hóa, một thực thể văn hóa, một thành tố cấu thành văn hóa, nhất là với văn hóa dân gian (Folklore). Trong lịch sử của quốc gia tôn giáo nhiều thời kỳ đã trở thành “Ý thức chủ đạo quán triệt vào phong tục tập quán, cách ứng xử, vào văn học nghệ thuật tạo nên lối sống riêng của những cư dân chịu ảnh hưởng” [3;183]
Tôn giáo không phải là động lực thúc đẩy chủ yếu, thậm chí có lúc, có nơi còn là lực kìm hãm sự phát triển xã hội, nhưng ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội là thực tế không thể chối cãi được.
Ở nước ta, một số tôn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo… vẫn có sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của xã hội hiện đại. Đảng ta xác định: “Tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài, tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo”. Trong diễn trình lịch sử dân tộc, cùng với Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo có mặt ở nước ta từ rất sớm (thế kỷ I, II) trải mười mấy thế kỷ. Phật giáo đã để lại những dấu ấn văn hóa sâu đậm trong đời sống xã hội người Việt, nhất là trong thời đại Lý – Trần (thế kỷ XI-XIV). Yếu tố văn hóa mang tính Phật giáo đã bám rễ rất sâu trong cơ tầng văn hóa dân gian Việt Nam, ảnh hưởng không nhỏ đến bản sắc, đời sống văn hóa nhiều vùng, miền. Trong phạm vi tham luận này, chúng tôi trình bày về “Ảnh hưởng của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đến đời sống văn hóa dân gian ở Hội An”.
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Hội An
Trước thế kỷ XV, vùng đất Hội An và cả Xứ Quảng – Đàng Trong, thuộc vương quốc Champa. Sau cuộc Nam tiến năm 1471 của vua Lê Thánh Tông thì Quảng Nam Thừa Tuyên đạo được thành lập. Và vùng đất mới này đã có sự hiện diện của Phật giáo.
Trong các năm 1901-1902, các nhà khảo cổ học người Pháp như Pinot Pramentier đã phát hiện Phật viện Đồng Dương (niên đại thế kỷ IX-X nay ở xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, Quảng Nam) với pho tượng Bồ tát bằng đồng cao 1m, bệ tượng có phù điêu, Phật thoại. Như vậy: “Tại Quảng Nam đã tìm thấy tượng Phật Đồng Dương, một trong những kỷ vật còn lại của trường phái điêu khắc Amaravati Ấn Độ” [11;19 ].
Ngoài ra phong cách nghệ thuật Phật giáo Môn – Dravati còn ảnh hưởng đến phong cách Mỹ Sơn E1 (motip 2 đầu Makara trên ngai sau lưng đức Phật)… Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh: “Yếu tố Phật giáo không chỉ thể hiện ở Đồng Dương và nhất là không phải chỉ qua mấy pho tượng Bồ Tát. Trái lại yếu tố Phật giáo tràn ngập các kiến trúc Champa từ Bắc chí Nam qua các phù điêu và tượng thờ. Nhưng đồng thời ở đây, thấy rõ sự xâm nhập giữa Bà La Môn giáo và Phật giáo về mặt văn hóa – nghệ thuật. Hình tượng hoa sen, lá sen, Phật xen lẫn các Garuda và Áp-xa-ra trong kiến trúc” [6; 318]. Ở Chùa Hang – Động Huyền Không (Ngũ Hành Sơn) còn lưu vết phù điêu phong cách Đồng Dương có 2 tượng phù điêu của 2 hộ pháp (Dvarapala) cầm kiếm (thế kỷ X) trong một Tịnh xá (Vihara). Như vậy, niên đại Phật giáo và Champa vẫn là vấn đề tồn nghi, nhưng không muộn hơn thế kỷ IX-X. Thời kỳ tiếp sau đó, Phật giáo Champa nhường cho Bà la môn giáo. Phật giáo vào Champa cũng như Việt Nam, chủ yếu là Phật giáo Đại thừa, vùng Nam Ấn vì theo giới nghiên cứu, căn cứ trên kinh điển “Hoàn toàn có thể tư tưởng Đại thừa Bát nhã được truyền thẳng từ Nam Ấn Độ sang Việt Nam, ngang qua Indonesia và Champa” [11; 22]. Sách Tùy Thư (Trung Quốc) có chép việc tướng nhà Tùy là Lưu Phương khi đi đánh nước Lâm Ấp (tên cũ của Champa) năm Đại Nghiệp nguyên niên (605), ngoài lấy nhiều vàng còn lấy gần một vạn kinh sách Phật. Theo tư liệu của H.Parmentier năm 1909, ở Tam Kỳ phát hiện tượng Phật ngồi thõng chân, cao 21cm, sau lưng có minh văn công thức Phật giáo: “Các phái đều do nhân duyên sinh ra. Đấng Như Lai đã thuyết về nguyên nhân cũng như sự tiêu diệt chúng. Chính Người. Đức Đại Sa Môn cũng nói như vậy”. Những năm 1993, 1999, ở Gia Lai phát hiện nhiều phù điêu Phật có minh văn Sanskrit này, chữ viết khoảng thế kỷ VI – VII [4; 416-417].
Thời kỳ cư dân Đại Việt vào “Vùng đất mới” miền Trung Việt Nam tương ứng với thời kỳ chia cắt của các tập đoàn phong kiến từ thế kỷ XVI-XVIII. Sau khi vào trấn thủ Thuận Hóa rồi cả hai xứ Thuận, Quảng – Đàng Trong, từ chúa Nguyễn Hoàng đến các chúa kế nghiệp để củng cố, giữ vững, lâu dài quyền thống trị của mình, chống lại với chúa Trịnh ở phía Bắc, các chúa Nguyễn đều ra sức đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, quân sự, chính trị… Trong đó có cả việc dùng đạo Phật và hết lòng ủng hộ Phật giáo phát triển. Bởi Phật giáo vốn rất gần gũi và ảnh hưởng sâu sắc đối với tín ngưỡng dân gian, nhất là trong cảnh chiến tranh loạn lạc (chiến tranh Trịnh – Nguyễn), cảnh di dân đến một vùng đất mới với bao khắc nghiệt. Đặc biệt, đây phải chăng cũng là một chủ trương chính trị nhằm củng cố tinh thần và tâm lý của cộng đồng cư dân Việt di dân vào mảnh đất phía Nam cùng các chúa Nguyễn. Lúc này, theo nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “các chúa Nguyễn không thể hoặc chưa thể dùng Khổng giáo vì những khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối với triều đình. Tuy nhiên, họ Nguyễn lại không dám đi quá xa và không dám tìm ra một giải pháp hoàn toàn khác biệt với truyền thống của người Việt” [11;194]. Trong hoàn cảnh nêu trên, có thể nói Phật giáo Đại thừa đã cung cấp một giải pháp đáp ứng nhu cầu của họ Nguyễn – một mặt vừa đẩy mạnh được bản sắc dân tộc của người Việt; mặt khác vừa làm lắng đọng các mối lo âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của những người cai trị. Thích Đại Sán đến Đàng Trong năm 1695 – khi vào phủ Chúa ông nhận xét: “Cung điện của chúa Nguyễn Phúc Chu được trang hoàng với cờ Phật giáo, trướng, cá gỗ và những quả chuông lộn ngược, giống như một ngôi chùa Phật giáo vậy” [2;15]. Hơn nữa, đối với cư dân Chàm, cư dân tiền trú – bản địa ở đây và cả cộng đồng cư dân người Hoa, Nhật di cư đến Đàng Trong cũng không xa lạ gì đối với tín ngưỡng Phật giáo. Như vậy, việc sùng đạo Phật và hết lòng ủng hộ đạo Phật của các chúa Nguyễn là “có lợi về mặt chính trị vì lôi kéo được nhiều người theo đạo Phật về phía mình”. Và cũng có thể chúa Nguyễn Hoàng đã mở đầu công khai cho ý chỉ của mình truyền lại cho các chúa đời sau và thần dân bằng việc cho xây chùa Thiên Mụ vào năm 1601. Chính vì thế mà nhiều dòng Phật giáo đã xâm nhập vào Đàng Trong. Nhưng để lại dấu ấn đặc biệt và tồn tại phát triển có hai thiền phái đó là: Thiền phái Lâm Tế với vai trò của Thiền sư Nguyên Thiều (1648-1728) và Thiền phái Tào Động với vai trò của Thiền sư Thích Đại Sán – Thạch Liêm (1633-1704) (có cuốn “Hải Ngoại kỷ sự” nổi tiếng).
Ở Hội An, phải mất khoảng thời gian gần một thế kỷ sau kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm hai xứ Thuận – Quảng, thì các dòng Phật giáo mới chính thức xâm nhập vào, đồng thời tồn tại và phát triển cho đến ngày nay chỉ có Thiền phái Lâm Tế chánh tông, bắt đầu từ đời thứ 34. Theo Lịch sử Phật giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức (xuất bản năm 1995), nguyên Tổ sư Siêu Bạch – Nguyên Thiều, người phủ Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc, xuất gia năm 19 tuổi, sư đã theo thuyền buôn của Trung Quốc đến Đàng Trong ở phủ Quy Ninh (Bình Định) lập chùa Thập Tháp Di Đà năm 1677. Vào đời Chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691), sau sự kiện Thiền sư Hương Hải của phái Thiền Trúc Lâm cùng với khoảng 50 đệ tử dùng thuyền bỏ ra Đàng Ngoài, chúa đã nhờ Thiền sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch ra Thuận Hóa thay thế Tổ sư Hương Hải hoằng dương Phật pháp ở đây. Sau đó, vì muốn cho Phật giáo phát triển mạnh hơn, chúa đã nhờ Tổ sư Nguyên Thiều về Trung Hoa thỉnh các tăng sĩ ở Trung Hoa, cùng kinh sách, pháp tượng, pháp khí… đến Đàng Trong. Sau khi dự Đại giới đàn ở Huế, một số thiền sư Trung Hoa đã vào Hội An và dòng Phật giáo Lâm Tế ở Hội An được phát triển từ đây với các Thiền sư Minh Hải, Minh Lượng… Ngài Minh Hải đã xuất kệ truyền thừa lập nên Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
– Thiền sư họ Lương, tên là Thế Ân, pháp danh Minh Hải, hiệu là Pháp Bảo (hay Pháp Hòa), tự là Đức Trí, quê ở tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc, thuộc đời thứ 34 dòng Lâm Tế chánh tông. Ngài vào Hội An – Quảng Nam, dựng chùa Chúc Thánh vào khoảng năm 1694-1695. Ngài được xem là Tổ khai sơn chùa Chúc Thánh ở Hội An. Trong thời gian trụ trì (hoằng dương Phật pháp) ở chùa này, Ngài đã phát xuất truyền phái (pháp danh, pháp tự) mới cho môn đồ thuộc chi phái Thiền Chúc Thánh – nghĩa là chùa Chúc Thánh sau này được xem là Chùa Tổ của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh. Nội dung của bài kệ là:
Pháp danh:
Minh thiệt pháp toàn chương
Ấn chơn như thị đồng
Chúc Thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa trường
Pháp tự:
Đắc chánh luật vi tông
Tổ đạo giải hạnh thông
Giác hoa bồ đề thụ
Xung mãn nhân thiên trung
Căn cứ theo dòng kệ này thì hiện nay môn đệ của ngài pháp danh đã đến các chữ Chơn, Như, Thị, Đồng, Chúc…; pháp tự đến chữ: Đạo, Giải, Hạnh, Thông…
– Thiền sư họ Lý, tên là Nhuận, pháp danh Minh Lượng, tự là Nguyệt Ân, hiệu là Thành Đẳng, quê quán tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc, thuộc đời thứ 34, dòng Lâm Tế chánh tông. Ngài từ Trung Quốc đến Đàng Trong theo thỉnh cầu từ Thiền sư Nguyên Thiều; sau khi dự Đại giới đàn ở Huế, Ngài vào Hội An – Quảng Nam dựng chùa Long Thọ, sau đổi thành Vạn Đức, tục gọi là chùa Cây Cau. Ngài được xem là tổ khai sơn chùa Vạn Đức.
Có thể nói, sau khi Tổ Minh Hải khai sơn chùa Chúc Thánh, Tổ Minh Lượng khai sơn chùa Vạn Đức thì Phật giáo theo Thiền phái Lâm Tế chánh tông ở Hội An bắt đầu từ đó. Đệ tử của các ngài theo dòng kệ của Tổ Minh Hải không ngừng kế tục, phát triển, truyền đời cho đến ngày nay và ở Hội An được xem là một trong những cái nôi Phật giáo ở Đàng Trong, trở thành chi phái thiền Lâm Tế Chúc Thánh ở phía Nam – chùa tổ là chùa Chúc Thánh. Ở Hội An, đệ tử của các ngài kế tục còn xây dựng thêm (khai sơn) chùa Phúc Lâm (nay ở Cẩm Hà), Kim Liên (nay chỉ còn dấu vết ở khối Trường Lệ – phường Cẩm Châu), Kim Sa (chỉ còn dấu vết ở khối An Bang – phường Thanh Hà), Thiên Đức/Chùa Lư/ Chùa Ông Tạng (nay là nhà thờ tộc Đinh nằm trên đường Hai Bà Trưng – Tân An), Viên Giác, Long Tuyền… Đặc biệt, hệ thống chùa thuộc các làng – xã cũng đều chịu ảnh hưởng, điều hành của chi phái Lâm Tế Chúc Thánh Hội An như các chùa Hải Tạng (Cù Lao Chàm), Kim Bửu (Cẩm Kim), Quan Âm Minh Hương (Minh Hương Phật tự, ở Minh An), Long An (Phước Trạch), Cẩm Giác (Cẩm Nam), Minh Giác (Thanh Hà)…
Ảnh hưởng của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đến đời sống văn hóa dân gian ở Hội An
Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa mạnh mẽ và lâu dài giữa cư dân Đại Việt, chủ yếu là cư dân vùng Thanh – Nghệ đến sinh sống ở “vùng đất phương Nam” với cư dân Chăm – Hoa – Nhật – phương Tây ở đô thị, thương cảng Faifo – Hội An trong nhiều thế kỷ đã dần kết tinh trong các truyền thống văn hóa vật thể, phi vật thể ở vùng đất này, mà trong đó các tôn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo có vai trò khá quan trọng. Ở đây, bằng những cứ liệu thực tế điền dã, thử tìm những ảnh hưởng của Phật giáo đối với các di tích văn hóa tin ngưỡng và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân Hội An, với mong muốn góp phần tìm hiểu những nét đặc trưng của văn hóa địa phương.
Người Việt vào vùng đất mới đã mang theo trong tâm thức những sinh hoạt tín ngưỡng, phong tục, tập quán… những thành tố văn hóa dân gian từ cố hương (văn hóa dân gian được hiểu là một tổng thể các thành tố mang tính nghệ thuật và phi nghệ thuật do quần chúng nhân dân sáng tạo ra một cách tự phát, nhằm thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người trong những thời đại đã qua). Người Việt vốn ở vùng đất mà như giáo sĩ A.de Rhodes đã tường thuật: “Có rất nhiều đền thờ và thần thánh, không một làng xã nhỏ bé nào mà không có chùa chiền và dân chúng rất mê theo” (A.de Rhodes, 1996; 44) cho thấy Phật giáo đã hòa quyện cùng văn hóa dân gian bản địa rất nhiều thế kỷ. Phật giáo Đàng Trong có sự gặp gỡ với văn hóa Chăm, với văn hóa Trung Hoa, tạo sự hỗn dung văn hóa và tôn giáo với nhiều sắc thái biểu hiện đa dạng.
Trong tín ngưỡng tổ tiên từ rất sớm đã được Phật giáo “khế hợp” với tín ngưỡng dân tộc, nhất là Phật giáo Đại thừa – không những thờ Thích Ca và Đức A Di Đà mà còn thờ cả các vị thần thánh, các tổ sư truyền thừa qua nhiều đời. Ở Hội An, những gia đình theo đạo Phật vẫn còn giữ tục lệ mời các thầy sư đến nhà tụng kinh “siêu sinh tịnh độ” cho người thân bị bệnh sắp mất; trong tang lễ có thiết bàn Phật trước linh sàng, rước bàn thờ Phật theo đám tang ra đến huyệt và sau tang 3 năm (mãn khó) đưa bát hương, bài vị, di ảnh vào thờ trong chùa. Ở nông thôn còn có tục “bán khoán” những đứa trẻ hay đau ốm, tật bệnh cho chùa “nuôi”, hớt tóc 3 chỏm hoặc một chỏm “làm con” Phật. Dịp mồng 8 tháng giêng âm lịch, có mời thầy cúng sao giải hạn, ngày rằm mồng một mua chim, cá “phóng sinh”. Những nhà có người chết nạn (chết “bất đắc kỳ tử”) thì làm lễ cầu siêu, giải trừ oan nghiệp. Trong sinh hoạt ẩm thực, ngày Rằm, Mồng một âm lịch, nhiều người ăn chay dù không phải là Phật tử (người đã quy y Tam bảo được chùa ban pháp danh). Tục khi gia đình, bản thân gặp nhiều hoạn nạn, bệnh tật, gia chủ hay bản thân người gặp khó khăn, hoạn nạn “ăn chay nằm đất bảy ngày, nửa tháng” hay xuống tóc (cạo trọc đầu) với tâm nguyện được Trời – Phật độ trì tai qua nạn khỏi,…
Ở Hội An và vùng phụ cận, nhiều chùa được lập/dựng gắn với các truyền thuyết (Phật tích) về sự xuất hiện của Phật Bà Quan Thế Âm hiện trong giấc mơ mách bảo người gặp khó khăn, hoạn nạn như sự tích Chùa Bồng Lai, chùa Quan Âm. Ở Cù Lao Chàm, chùa Hải Tạng gắn với công tích trừ yêu ma quấy nhiễu dân làng của Thiền sư Hương Hải. Đáng lưu ý là trong truyền thuyết về “Tục thờ Cá Ông” dân gian tuyên truyền rằng, khi ngư dân gặp bão tố chìm thuyền liền niệm “A Di Đà Phật”, thì Phật A Di Đà phái Quan Thế Âm đến giúp. Quan Thế Âm xuất hiện nhưng bão tố quá hung dữ, Ngài dùng đủ mọi pháp thuật vẫn không làm cho sóng yên biển lặng. Cuối cùng vì quá thương xót dân chúng, Ngài dùng phép xé tấm áo cà sa đang mặc thành trăm nghìn mảnh rồi ném xuống biển. Mỗi mảnh vải biến thành một Ông (cá voi) bơi đến đưa thuyền, người đến chốn bình an.
Những lời dạy của Đức Phật về “khuyến thiện, làm lành về tu nhân tích đức, đoạn trừ phiền não”… đã ảnh hưởng rất lớn đến nội dung của thành ngữ, tục ngũ, ca dao… ở địa phương như:
Thứ nhất là tu tại gia.
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Hay
Ăn chay, niệm Phật lễ chùa.
Không bằng lượm một cành gai giữa đàng.
Các chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Hội An thờ đủ 7 lớp tượng: Tam thế, Di Đà tam tôn, Hoa Nghiêm tam thánh, Cửu Long, Tứ Thiên vương, Tứ Bồ tát, Bát bộ Kim Cương. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt gặp gỡ với tín ngưỡng thờ Nữ thần Mẹ xứ sở của người Chăm (Pô-Inư-Na-Gar), Thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa – hội tụ trong tín ngưỡng thờ Quan Thế Âm của Phật giáo. Người Hoa ở Hội An đã lập chùa Quan Âm rất sớm (trước 1653), có tên “Minh Hương Phật tự”, thờ Bồ Tát Quan Thế Âm, về sau thêm một số vị Phật và Bồ tát. Một trường hợp điển hình cho sự giao hòa văn hóa đó là chùa Kim Sơn (nằm bên trong Hội quán Phước Kiến). Chùa Kim Sơn được xây dựng năm 1697 thờ Quan Thế Âm, dần về sau thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu (Vị thánh có công cứu hộ độ sinh của cư dân sinh sống trên biển của người Trung Hoa) và nhiều vị khác, thứ tự như sau: Quan Thế Âm – Thiên Hậu Thánh Mẫu – Thần Tài – Ba bà Chúa Sinh Thai – Mười hai bà Mụ – Ba mươi sáu vị tướng linh thiêng – Thần Thuận Phong Nhĩ (tai nghe nghìn dặm) – Thần Thiên Lý Nhãn (mắt trông xa nghìn dặm)… Như vậy, từ chùa Kim Sơn thực tế đã biến thành hội quán/đền. Phía trước thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, cung Thần phụ trợ, còn phía sau thờ Tiền hiền, Chúa Thiên Thai, Thần Tài.
Cùng với quần thể di tích văn hóa – tín ngưỡng, Hội An có rất nhiều Lễ hội. Tín ngưỡng Cầu mùa – Cầu dân khang vật thịnh (phồn thực) của cư dân nông nghiệp đã ảnh hưởng qua lại với Phật giáo và ngược lại, như GS. Đặng Nghiêm Vạn nhận định: “Đạo Phật thấm sâu vào dân chúng nhờ hòa quyện không những với đạo Nho mà với các tôn giáo bản địa, đăc biệt là lễ tiết nông nghiệp với tục thờ phồn thực” [3;211].
Lễ Cầu Bông ở một số làng nông nghiệp ở Hội An, có tục vẩy nước Cam Lộ với nhành dương liễu. Tục cúng cá Ông (Lễ hội Cầu ngư) trong nghi thức, trong trò diễn có màn Đưa linh Ông với bài kinh tán tụng công đức Đức Phật A Di Đà.
Trong sinh hoạt Phật giáo ở Hội An tập trung chủ yếu phần nghi lễ, yếu tố Hội rất ít và nếu có thì là ảnh hưởng của tín ngưỡng bản địa. Vào dịp lễ Vu lan (Rằm tháng Bảy), sau phần nghi lễ ở các chùa có trò Xô Cộ. Tăng ni, Phật tử dựng một tòa tháp 7 đến 9 tầng bằng tre, cao từ 7 đến 9 thước, bày đầy bánh, trái cây, gạo, nếp. Vào hội sư trụ trì đọc kinh, làm phép, nhà chùa điểm một tiếng trống thì già, trẻ, trai, gái ùa vào xô cộ, tranh nhau hưởng “hương hoa” của Phật. Lễ Vu lan còn diễn tích “Mục Kiền Liên tìm mẹ ở âm ti” với các trò chơi dân gian như qua cầu độc mộc (1 cây tre), trò bịt mắt “đập nồi” đọc thuộc lời một đoạn kinh… với ý nghĩa thử thách lòng con hiếu thảo với mẹ. Lễ Phật đản (Rằm tháng Tư), sau phần lễ có màn rước cộ Phật với tích Phật sinh, 7 bước hoa sen, chín rồng hiện (tòa Cửu Long) đi vòng quanh các đường phố, làng. Như vậy, đúng như một nhà nghiên cứu nhận định: “Phật giáo từ Ấn Độ du nhập vào đã được dân tộc ta tiếp nhận vì có nhiều nét tương đồng với tín ngưỡng truyền thống. Có thể nói Phật giáo đã hòa vào tín ngưỡng truyền thống, bổ sung cho tín ngưỡng truyền thống tạo một cơ sở triết lý để tạo nên một tôn giáo của dân tộc đó là Phật giáo Việt Nam”.
Hầu hết, các chùa ở Hội An đều xây dựng dạng chữ Tam, chữ Đinh, gần gũi phong cách đình làng. Tòa chính điện thường là nhà 3 gian hai chái (Chùa Quan Âm, Chùa Phước Lâm…). Nhà hậu thường là nơi thờ các vị sư đã qua đời, có nơi là Tổ đình của hệ phái như Chúc Thánh, Phước Lâm, Vạn Đức… Nhà tu học của các sư thường bố trí một bên hoặc trái, hoặc phải tòa chính điện. Trước chùa có ao thả sen, Tam quan và lối dẫn vào chính điện. Trước tòa chính điện, một bên có miếu thờ Thổ Địa (Đức Ông), một bên có miếu thờ Ngũ hành tiên nương; Xung quanh chùa có các Bảo tháp, kiểu thức Tu di tọa là tháp mộ các sư có công đức lớn với chùa.
Hơn nữa, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, tinh thần – tín ngưỡng Phật giáo vẫn luôn thấm đậm trong đời sống cộng đồng dân cư và cùng với Đàng Trong – ở Hội An, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu thì ở đây tín ngưỡng Phật giáo đã có sự chuyển hóa mạnh mẽ từ yếu tố Trung Hoa sang màu sắc dân tộc. Biểu hiện của nó chính là sự tác hợp nhuần nhuyễn với tín ngưỡng truyền thống; với Đạo giáo, Nho giáo. Đến cuối thế kỷ XIX, các ngôi chùa Phật, nhất là ở các ngôi chùa làng – xã vẫn còn phối thờ: các chư Phật, Bồ Tát bên cạnh thờ Thập Điện – Diêm Vương, Ngọc Hoàng thượng đế có cả Nam Tào, Bắc Đẩu; Quan Thánh đế quân có Châu Thương, Văn Bình theo hầu… Hình thức thờ tự này đến nay ở chùa Hải Tạng – Cù Lao Chàm vẫn còn tồn tại. Ở đây, tín ngưỡng Phật giáo không có kinh luận uyên ảo của các tông phái Thiền Tông, Nghiêm Tông… mà chỉ bằng con đường an ủi, phủ dụ, nguyện cầu của Tịnh độ tông, kết hợp với Thiền tông, Mật tông… để có nghi thức biến hóa cho phù hợp với tâm thức truyền thống. Tâm nguyện bản nguyên của người Việt Nam: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, bắt gặp nguyên lực từ bi, hỷ xả, bố thí của Phật giáo, cũng như quan niệm “Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác” của Nho giáo. Chính vì thế, người dân Hội An vốn hiền hòa bình dị, phần lớn không theo con đường tu tập triệt để của Phật giáo Thiền tông. Dẫu có ngày rằm, mồng một ăn chay, niệm Phật, đến chùa lễ bái, hoặc tham dự các đạo tràng, luân phiên tụng niệm từ nhà này sang nhà khác, cũng chỉ là một sự nguyện cầu của con người phàm tục, sống giữa đời cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người quá cố được siêu thoát ở thế giới bên kia. Họ vừa thờ Phật, vừa thờ Thánh. Dẫu có người thuộc lòng nội dung phương châm tam quy Phật giáo nhưng trong tâm thức vẫn hướng về bất cứ lực lượng siêu nhiên nào, thế lực thần linh nào, miễn lực lượng ấy có thể giải cứu cho thân nhân họ khỏi bệnh tật, đau ốm… Hình tượng đức Phật mà họ ngưỡng mộ nhất là Phật A Di Đà và Quan Thế Âm Bồ tát. Do vậy, câu niệm thường xuyên của họ là: “Nam mô A Di Đà Phật” và “Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát” và nếu ở bàn thờ tại nhà thì còn có thêm “Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân”… Họ quan tâm đến ngày vía A Di Đà (rằm tháng Giêng); Ngày lễ Phật đản (rằm tháng 4); Ngày lễ Vu lan (rằm tháng 7). Những ngày này, họ không chỉ đến chùa mà ngay tại tư gia cũng dâng lễ chư Phật, Bồ tát, cầu nguyện giải thoát cho vong linh tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người quá cố. Trong ngày giỗ kỵ, tang ma, các nghi thức cúng thí thực cho thập loại cô hồn, cầu an, cầu siêu… đều hướng về chư Phật, Bồ tát, khẩn cầu cho linh hồn người quá cố tiếp độ vong linh về nơi thế giới Tây phương cực lạc và còn rất nhiều lễ tục khác ảnh hưởng của Phật giáo liên quan đến tang ma như: Thiết bàn Phật trước linh sàng; rước bàn thờ Phật theo đám tang đến huyệt; phóng sinh chim, cua… tại mộ; nghi thức cúng tuần… Đặc biệt người dân Hội An luôn quan tâm đến những linh hồn người chết không ai thờ tự, những tử sĩ, liệt sĩ mất thây, những người bị tai nạn tử vong, vất vưỡng nơi cõi âm… Chính vì thế làng nào cũng có chùa làng, xóm – thôn có miếu để thờ âm linh liệt vị. Và trước khi dâng cúng trong đình, miếu, lăng, nhà thờ tộc/họ hay cúng ông bà tổ tiên đều có thiết bàn cúng đất, cùng âm linh liệt vị ở giữa sân hoặc trong hiên nhà nhưng xoay mặt ra, lễ vật không thể thiếu hoa, quả, hương, đèn, cháo trắng, gạo muối, bỏng nổ nhiều màu sắc.
Nhìn chung, trong lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng cư dân Hội An, Phật giáo nói chung, Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh nói riêng đã có ảnh hưởng rất sâu đậm và tích cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội, đến nếp sống, cách ứng xử, phong tục, tập quán, tín ngưỡng nơi đây và góp phần tạo nên những nét đặc trưng văn hóa của cộng đồng cư dân Hội An. Đặc biệt đưa con người Hội An sống tích đức, hướng thiện, “nhân tình thuần hậu”.
THS THÍCH CHÍ TRUNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.de Rhodes (1996), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chi Minh.
2. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại ký sự, Ủy ban biên dịch sử liệu Việt Nam, Viện đại học Huế, Huế.
3. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hà Văn Tấn (2001), “Minh văn Sankrit trên phù điêu Phật ở Gia Lai”, Trong Những phát hiện khảo cổ học năm 2000, Nxb Khoa học xã hội.
5. Lâm Mỹ Dung – Hoàng Anh Tuấn (2001), “Địa điểm Bãi Làng qua nghiên cứu khảo cổ”, Tạp chí Khảo cổ học, Viện khảo cổ, số 4.
6. Nguyễn Duy Hinh (1978), “Thu hoạch về tháp Chăm”, Những phát hiện mới về khảo cổ, Hà Nội, Viện Khảo cổ học.
7. Phan Huy Lê (1991), “Đô thị cổ Hội An lịch sử và hiện trạng”, Trong Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội.
8. Quế Lai (1999), “Lễ hội Vu lan”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2 (66).
9. Thông Khánh (1999), Phật giáo Champa, Nxb Khoa học xã hội.
10. Trần Lâm Biền (1995), “Suy nghĩ quanh ngôi chùa Việt”, Trong Văn hóa và phát triển, Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin.
11. V. Rougier… Dẫn theo Nguyễn Tài Thư chủ biên (1998), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội.