Tinh thần Đạo pháp dân tộc trong Văn kệ Di chúc của Hoà thượng Quảng Đức (Thích Nữ Tâm Hoa)

          Là người con Phật, ai cũng lấy sự trường tồn của Phật pháp, sự tự lợi lợi tha làm bổn hoài. Khi Phật pháp gặp nguy nan, nhân dân khốn khổ, là sứ giả Như Lai chắc chắn sẽ không ai ngồi yên mà nhìn. Hòa thượng Quảng Đức, người con dòng thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh, trước sự Đạo pháp nước nhà lâm nguy, dân tộc khốn đốn, Ngài đã lấy thân mình để bảo vệ sự trường tồn của Đạo pháp, giành lại sự công bằng cho dân tộc. Với tinh thần trí, dũng, vô úy ấy, không những đã thể hiện việc Ngài ngồi an nhiên bất động trong ngọn lửa hồng, mà trong những lời di chúc và bài thi kệ cuối đời của Ngài, cũng nói lên ý chí bất diệt, từ bi bác ái của một vị Bồ tát hết lòng vì Đạo pháp và dân tộc.

          Thân thế của Hòa thượng Quảng Đức

          Hòa thượng thế danh là Lâm Văn Tuất, sinh năm 1897 (Đinh Dậu), người huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm 7 tuổi Ngài được cậu ruột là Hòa thượng Như Đạt – Giải Nghĩa – Hoằng Thâm, nhận làm con nuôi và cũng là bổn sư của Ngài. Ngài còn có tên khác là Nguyễn Văn Khiết.

          Hòa thượng Quảng Đức là thế hệ thứ 9 của pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh.

          Cuộc đời của Hòa thượng là Người sống giản dị, thanh bần, Ngài đi khắp các tỉnh từ miền Trung cho đến miền Nam, từ những vùng sâu xa như Núi Cấm, cho đến vùng hẻo lánh như Hà Tiên, Nam Vang. Ngài chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa. Nhưng Thiền, Tịnh, Mật đều gồm tu, cho đến kinh điển Pali giáo lý Nam truyền, Ngài cũng gia tâm nghiên cứu. Trong sự nghiệp hành đạo từ Trung đến Nam, Ngài đã trùng tu và kiến tạo tất cả 31 ngôi chùa1. Ngài luôn thực hành hạnh nguyện “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, vì vậy không có nơi nào Ngài trụ lâu, xây dựng hay tu sửa ngôi già lam nào xong là Ngài giao cho người khác và lên đường tiếp tục cuộc hành trình mới.

          Trước sự Pháp nạn năm 1963, bậc xuất trần thượng sĩ, luôn thao thức trăn trở, lo lắng trước vận mệnh Phật giáo nước nhà, sau nhiều tuần thiền định để tăng trưởng thêm nội lực, Ngài đã tự nguyện hy hiến cuộc đời mình cho đại nghĩa, làm rung chuyển cả thế giới, và để thức tỉnh sự mê mờ của nền Đệ nhất cộng hòa.

          Bồ tát Thích Quảng Đức, lấy thân mình để đốt lên ngọn lửa thiêng, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt Sài Gòn (nay là Nguyễn Đình Chiểu – Cách Mạng Tháng Tám), sáng ngày 11.6.1963.

          Từ bi, bình đẳng

          Trong Phật giáo Đại thừa, Từ bi là hai tâm đức rộng lớn của chư Phật và Bồ tát, từ là thương nhớ ban vui cho chúng sanh, bi là thương xót cứu khổ cho tất cả chúng sanh2. Trong Luận Đại Trí Độ cũng có nói: “Bồ tát do có tâm Đại từ Đại bi, mà giữ tâm thường bất động, chẳng có sân nhuế, chẳng có oán giận trước sự mắng nhiếc, hủy báng, hành hung của kẻ ác”3. Hòa thượng Thích Quảng Đức thật là vị Bồ tát đầy đủ lòng từ bi, trước tình hình Phật pháp nguy nan, nhân dân tín đồ Phật giáo bị đàn áp, Hòa thượng đã không thể ngồi yên. Ngài nói: “Đạo pháp trong cơn nguy khốn, mà tôi tuổi già sức mọn, không làm được gì. Nên tôi xin học Đức Dược Vương, nguyện thiêu thân mình để cầu cho Phật pháp trường tồn. Ngưỡng mong liệt vị trưởng thượng tôn túc từ bi hứa khả, và quyết định cho lúc nào thực hiện”4. Rõ ràng ở đây có hai ý, thứ nhất là Ngài phát nguyện tự thiêu là học theo hạnh nguyện vì pháp cúng dường của Dược Vương Bồ tát, chứ không phải là hành động vì tuyệt vọng trong cuộc sống mà muốn hủy hoại thân thể. Chúng ta đều biết tiền thân của Ngài Dược Vương Bồ tát là Tịnh Tạng Bồ tát cùng với Tịnh Nhãn Bồ tát, dùng thần thông biến hóa mà xoay chuyển tâm tà của vua cha, làm cho tâm vua cha được thanh tịnh. Hòa thượng Quảng Đức không dùng thần thông như Dược Vương Bồ tát, mà Ngài dùng sức vô úy, định lực để lại trái tim bất diệt hầu mong Tổng thống Ngô Đình Diệm cải tâm kỳ thị, “thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo, để giữ vững đất nước thanh bình, quốc dân an lạc”5. Đọc bài Tâm Quyết chúng ta thấy, toàn văn bài di chúc không hề thấy có chút sân hận, mà còn khuyên ông Diệm nên lấy lòng bác ái mà trị quốc an dân, cầu nguyện Phật tổ gia hộ cho ông được sáng suốt.

          Bồ tát làm Phật sự “chúng sanh độ tận mới chứng Bồ đề”, dù cho xương tan thịt nát vẫn không từ nhọc:

          Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình

          Làm đèn soi sáng nẻo vô minh

          Khói thơm cảnh tỉnh bao người ác

          Tro trắng phẳng sang hố bất bình

          Thân chảy nát tan ra tro trắng

          Thần thức nương về giúp sinh linh

          Hỡi ai mộng ảo đang còn mộng

          Hãy gấp tỉnh đi kẻo giật mình.

 

          Thật là lòng từ bi vô bờ bến, chỉ có người hành Bồ tát đạo, mới đủ nghị lực nguyện đốt mình để làm đèn, lấy khói để thức tỉnh cho những kẻ còn mê mờ. Không những thế, khi biết mình sẽ về Tây, nhưng với tâm nguyện độ sanh Ngài vẫn xin dùng thần thức để giúp sinh linh, giúp những người còn sống trong mộng chưa thức tỉnh.

          Có người hỏi: “Hòa thượng không sợ nhà cầm quyền Quốc gia ghép Ngài thân Cộng sản hay sao? Ngài đáp: Theo tôi thì Việt Nam không có bên này bên kia, đây tôi chỉ hành theo điều thiện, để giảm điều ác”6.

          Tâm Bồ tát bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân, tất cả đều không hai. Vì vậy trước lúc ra đi Ngài cũng không quên nhắc nhở các đệ tử của Người:

 

                    Thầy đã đến lúc biệt các con

                    Ba mươi năm hạnh nguyện vẫn còn

                    Những gì đáng độ Thầy đã độ

                    Thầy tranh chánh pháp lúc mất còn.

 

Hay:

                    Cùng toàn thể tín đồ Phật giáo

                    Cùng hàng Phật tử tại gia

                    Hãy quên bản ngã bỏ cái ta

                    Gấp sửa thân tâm vì đại cuộc

                    Ngàn năm sử Việt vẫn Phật gia.

 

          Đọc đến đây thì hình ảnh đức Phật nhập diệt nơi rừng Sa-la song thọ như hiện ra trước mắt, cảnh tượng ấy vừa hùng tráng, vừa làm lay chuyển cả đất trời. Ở đây, hình ảnh Ngài ngồi như pho tượng đồng đen trong ngọn lửa hồng, cũng đã làm rung động khắp cả năm châu.

          Vì đạo pháp và dân tộc

          Bồ tát từ bi vô lượng, mục đích là độ tha, hầu mong giác ngộ chúng sanh, cùng nhau đến bờ giải thoát. Đạo Phật từ khi truyền vào Việt Nam, tinh thần vì đạo cứu đời ấy từ xưa đến nay đời đời tiếp nối không ngừng. Khi đất nước khốn đốn, nhất là Đạo pháp nguy nan, nhân dân lầm than, làm người con Phật không kể đến sinh mạng mình, dấn thân bảo vệ Tổ quốc và Đạo pháp, đáp đền tứ ân.

          Hòa thượng nhận định rõ: “Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong…”. Chí ý của Ngài rất là kiên quyết “vì sự bất bình mà thiêu xác”, hành động dõng mãnh an nhiên trong ngọn lửa đỏ không lay động, cũng không gắng gượng. Ngài nghĩ:

Đã mang danh thể con nhà Thích

Bi, Trí, Hùng sao chẳng đem ra

          Là một Thích tử, phải biết nối dõi mạng mạch của Như Lai, phải lấy sự trường tồn của Phật pháp đặt lên hàng đầu. Không luận là người tại gia hay xuất gia, đều phải lấy sự hưng thạnh của Phật pháp làm vận mạng của mình.

          Trên lịch sử, Phật giáo Việt Nam là một thành phần quan trọng trong quá trình giành độc lập và xây dựng đất nước. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc. Vậy mà chính quyền nhà Ngô muốn phá tan sự thật này, muốn tiêu diệt Phật pháp, làm cho tín đồ Phật giáo phải điêu đứng, nhân dân phẫn uất:

Phật giáo sử vàng máu thay son

Than ôi! Quỷ kế họ vẫn còn

Quyết diệt suy tàn nền Chánh pháp

Làm cho Tăng, Tín phải chết mòn.

          Dầu cho chính quyền nhà Ngô không chấp nhận sự tồn tại của Phật giáo, nhưng trên thực tế, Phật giáo Việt Nam là một nhân tố quan trọng không thể thiếu, mãi mãi là “nghìn năm sử Việt vẫn Phật gia”.

          “Sử Việt và Phật giáo” không thể tách rời, cùng nhau đồng hành góp phần làm vẽ vang đất nước. Chế độ nào muốn hủy diệt tôn giáo đã đi sâu vào trong lòng người dân, chắc chắn họ sẽ nhận lấy sự phản đối mạnh mẽ để giành lại sự công bằng và bình đẳng. Hòa thượng Quảng Đức thấy nước nhà nguy nan, với lòng từ bi vô lượng, vì sự trường tồn của Phật pháp, trừ diệt sự bất công kỳ thị, Ngài đã nguyện đem thân máu thịt của mình, làm ngọn đèn soi sáng cảnh tỉnh kẻ vô minh chấp trước. Hành động cúng dường của Hòa thượng không những là công đức to lớn với Phật giáo mà đồng thời là một đóng góp cao quý sâu sắc vào đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Sự hy sinh cao cả của Ngài đã làm cho chính quyền độc tài kỳ thị tôn giáo phải run sợ, làm cho cả thế giới đều chấn động.

          Sự đấu tranh giành công bằng cho Phật giáo của Hòa thượng không phải bằng vũ khí, mà bằng cả lòng từ bi, bình đẳng, vô úy. Hình ảnh một vị Sư tịnh tọa an nhiên trong ngọn lửa hồng đã chứng minh cho nhân loại biết rằng, đạo Phật không phải yếm thế tiêu cực, mà sức mạnh của Phật giáo cần phải khế lý khế cơ, đầy đủ bi, trí mới có thể hàng phục được ma chướng. Mặt khác, trái tim bất diệt của Ngài đã làm cho thế giới phải khâm phục, làm rạng rỡ thêm trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam, tô thắm thêm tư tưởng “Kỳ quốc tộ địa trường” hào hùng của dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài chính là vị Bồ tát tồi tà phụ chánh mà những người con Phật ở Việt Nam sẽ lưu truyền mãi mãi.

          Nam mô Tồi tà phụ chánh Bồ tát Thích Quảng Đức.

THÍCH NỮ TÂM HOA
Trụ trì chùa Giác Tâm – Phú Nhuận

 

 

_Chú thích:

1. 31 ngôi chùa, trong đó miền Trung 14 ngôi, miền Nam 17 ngôi (những ngôi chùa miền Nam do Ngài tu tạo đến nay vẫn chưa xác định hết được). Tham khảo, B Tát Qung Đức Ngn La Và Trái Tim – V 14 Ngôi Chùa Khánh Hòa, Thích Như Hoằng, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, trang 127-137.

2. Lun Đại Trí Độ, do Bồ Tát Long Thọ tạo, Hán dịch Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, Việt dịch Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, tập 2, trang 179.

3. Lun Đại Trí Độ, do Bồ Tát Long Thọ tạo, Hán dịch Tam Tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, Việt dịch Ni trưởng Thích Nữ Diệu Khôn, tập 2, trang 181.

4. B Tát Qung Đức Ngn La Và Trái Tim – Ngn La Qung Đức, Hòa thượng Thích Trí Quang, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, trang 145.

5. Trích trong Li Nguyn Tâm Quyết của Hòa thượng trước khi tự thiêu, B Tát Qung Đức Ngn La Và Trái Tim – Tiu S B Tát Thích Qung Đức, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, trang 23.

6. B Tát Qung Đức Ngn La Và Trái Tim- B tát Thích Qung Đức, Hòa thượng Thông Bửu, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, trang 184.