Dòng thiền Chúc Thánh trong dòng chảy lịch sử Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thế kỷ XVII – XIX (Lê Xuân Thông)

          Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng có lịch sử phát triển lâu dài và bám sâu, lan tỏa rộng vào đời sống xã hội địa phương.

          Từ nửa đầu thế kỷ XVII, sau sự kiện chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho xây dựng chùa Long Hưng ở phía Đông Dinh trấn Quảng Nam (năm 1602) và chùa Bảo Châu ở xã Trà Kiệu (năm 1607) thì vài thập niên sau đó, trên vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng, chứng kiến nhiều vị danh tăng người Việt đến hoằng hóa, trong đó đáng chú ý là các Thiền sư Huệ Đạo Minh và Minh Châu Hương Hải, đã để lại những dấu ấn Phật giáo quan trọng. Đặc biệt, vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, trong không khí các thiền sư Trung Hoa nhộn nhịp sang Đại Việt truyền chánh pháp, thì thương phố Hội An (Quảng Nam), Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) là những nơi đón nhiều thiền sư cả Lâm Tế và Tào Động dừng chân xây dựng đạo tràng, xiển dương đạo pháp, như các thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo, Minh Lượng – Thành Đẳng, Đương Cơ – Chân Dĩnh (phái Lâm Tế); và thiền sư Hưng Liên (phái Tào Động). Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng từ đây phát triển hưng thịnh, có sức ảnh hưởng lớn trong xã hội.

          Đến giữa thế kỷ XVIII, Minh Hải – Pháp Bảo lại biệt xuất bài kệ truyền phái mới, hình thành nên dòng Lâm Tế Chúc Thánh, từng bước không chỉ chiếm lĩnh vị trí quan trọng tại nơi phát tích, mà còn lan rộng vào khu vực Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

          Tính cởi mở, bình dân và gần gũi

          Có thể thấy ngay rằng, các danh tăng Phật giáo đất Quảng gần như không chú ý đến việc trước tác lý luận, bình giảng kinh sách, đề ra các chủ thuyết, mà chỉ chú trọng thực hành, không thích nghĩa lý rườm rà.

          Huệ Đạo Minh là một thiền tăng phái Trúc Lâm, lập trác tích và xiển dương chánh pháp tại Ngũ Hành Sơn, giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVII, thu hút rất đông tín hữu. Ông lập hai văn bia trên ngọn Thủy Sơn thuộc núi Ngũ Hành: Ngũ Uẩn sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc ở động Vân Thông, năm Tân Mùi (1631) và Phổ Đà sơn linh trung Phật ở động Hoa Nghiêm, năm Canh Thìn (1640). Và trong văn bia Ngũ Uẩn sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc, Huệ Đạo Minh đã không ngần ngại mượn một đoạn khấn nguyện từ bài sám Nhất tâm quy mạng của Từ Vân Tuân Thức (964-1032) – một cao tăng Trung Quốc, để giãi bày thay cho tâm mình và tín hữu1.

          Trong trường hợp này, thật bất nhã nếu nghĩ rằng đó là biểu hiện của một sự hạn hẹp tâm trí. Minh Châu Hương Hải (1628-1715) là một hiện thực đầy thú vị. Khi tu trì ở Đàng Trong gần 30 năm, trong đó ở Quảng Nam khoảng gần 10 năm, ông hoàn toàn không trước thuật gì. Khi ra Đàng Ngoài, ông mới bắt đầu hoạt động soạn giải, sáng tác và để lại cho đời một khối lượng tác phẩm tương đối đồ sộ như ta thấy2. Đến Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo (1670- 1746) – Sơ tổ phái Lâm Tế Chúc Thánh, cũng không cho thấy sự hào hứng trong việc lập thuyết. Bài kệ truyền thừa tông phái do ông biệt lập, hoàn toàn vắng bóng các vấn đề bản thể luận hay nhận thức luận, thậm chí còn không bàn đến thiền lý, mà căn bản là “yếu minh học thuật” tức chỉ bày cách tu hành ngộ đạo3. Trường hợp Thiền sư Pháp Kiêm – Luật Oai – Minh Giác (1747-1830)4 lại càng đặc biệt, điển hình cho sự phóng khoáng và đồng thời cũng rất bình dân, gần gũi. Với ông, chỉ có lăn xả vào đời sống trần tục, hòa cùng những sinh hoạt trĩu nặng lo toan của dân chúng thì mới bùng vỡ chân lý giải thoát. Từ một tiểu tăng chùa Phước Lâm (Hội An) “lấy chuyện khất thực làm kế sinh nhai, sớm hôm vui với pháp kệ”, đã gần như lĩnh hội được mọi thiền tôn yếu chỉ do sư phụ trao truyền, ông lại hoàn tục và hoàn hương (Quảng Ngãi) rồi nhập binh tòng chinh trong quân đội chúa Nguyễn5; đồng thời lấy vợ sinh con tại quê nhà. Tại cuộc chiến ở vùng sơn man6, ông lập được chiến công nên được trao chức chỉ huy. Nhưng như thế càng khiến ông thêm day dứt, ân hận. Sự thành bại chẳng qua cũng chỉ là huyễn tạo. Con người vì dục vọng mà để tạo hóa trêu ngươi, lún sâu vào vòng tục lụy. Ông bèn từ bỏ tất cả để trở lại Hội An, và thực hành lối tu khổ hạnh như là một cuộc thanh tẩy thân tâm do ít nhiều đã bị vấy đục bởi mấy năm làm kẻ phàm trong cuộc đời ô trọc; đồng thời từ đó để khai mở tuệ giác, thực hiện tế độ tha nhân. Văn bia viết: “Thân được hơn 10 năm nhàn tĩnh lại hóa một phen náo nhiệt, làm khách trong chốn dịch trung. Đương lúc đường công danh rạng rỡ, đắc ý, ai cũng yên tâm, còn sư thì nhớ lại những chuyện từ trước đến nay, hốt nhiên dành một ngày hợp thỉnh bà con thân thích cùng huynh đệ đến dặn dò, thác việc hương hỏa, mộ phần tiên nhân cùng gia tài, vợ con. Ngài phụng sự Phật đà, từ bỏ trần duyên, tìm lại thú xưa, xem nhẹ kiếp phù sinh. Trong đội kinh sợ sự thiêu tàn của hỏa trạch. Còn sư tĩnh tư tiến Phật, chú niệm trong chốn dịch trung, chở thuyền từ tế độ, nên lại đến phố Hội An ở Quảng Nam phát đại nguyện quét chợ 20 năm, quét sạch bụi cảnh trần ai, đăng đàn tịnh khiết. Trong ngày bát cấu đều không, chúng được nhờ ơn đón cơn gió mát. Trên đường một trần không nhiễm, người đi đường được ơn uống nước trong. Mười thu lao khổ, bận rộn, một lòng kiên trinh. Việc ấy thực là sự đấu tranh công phu ở chỗ khổ tu vạn hạnh”.

          Sau hơn 20 năm quét chợ tu hành, đạo hạnh của ông được nhân dân, tín hữu Phật giáo rất mực ngưỡng mộ. Chư sơn cung thỉnh khai giới đàn, tôn hiệu ông là Minh Giác, lấy ý là giác ngộ theo Phật. Văn bia viết tiếp: “Sư tính thông tuệ trời sinh, lấy 20 năm tình duyên danh lợi một dao cắt đứt xem như cát sông bọt bèo, lại đem thân vào chốn thị thành bụi bặm, huyên náo, lao tâm khổ trí, cầu lấy sự kiên định vững vàng trong tâm niệm để thành tựu tấm thân chứng đạo. Ngài chẳng những tự khai giác mình mà còn khai giác cho tất thảy những người có tình, giống như thức tỉnh sau cơn mộng vậy. Điển tích nhà Phật có nói: Tự mình giác ngộ, lại giác ngộ cho người khác, như vậy mới thực hiện trọn vẹn sự giác ngộ. Sư hội đủ những điều này nên cử hiệu Minh Giác. Chư sơn xa gần đều thành tâm tôn phục. Phàm nói hoặc xử trí những việc khó khăn trong việc giữ gìn phẩm hạnh của bản thân đều xem ngài là vị Phật tử xuất thế vậy”. Có thể nói rằng Thiền sư Minh Giác là một hiện tượng đặc biệt của dòng Lâm Tế Chúc Thánh và cả trong lịch sử Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng. Ông là một thể nghiệm đầy sinh động, thuyết phục về sự chứng đắc chân lý giác ngộ ngay giữa vòng xoáy của cuộc sống trần tục đầy tội lỗi.

          Rõ ràng, Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng không chủ trương bám víu vào thiền lý, càng không đề cao cái trừu tượng siêu hình; giới luật mà các hòa thượng bắt buộc thiền sinh (và kể cả bản thân họ) phải tuân thủ, thậm chí tuân thủ nghiêm ngặt chỉ là bước luyện tập không thể thiếu do căn trí kẻ tu hành phải theo con đường tiệm ngộ, không thể đốn ngộ. Hai vấn đề đó thống nhất biện chứng, không hề mâu thuẫn.

          Những ghi chép trong Ngũ Hành Sơn lục7, cũng như những cảm nhận của A. Sallet vào đầu thế kỷ XX8 khi tiếp xúc với Phật giáo ở Ngũ Hành Sơn, hay cuộc đời các thiền tăng ở các chùa Chúc Thánh, Phước Lâm được hậu nhân ghi lại đã nói lên rằng, những vị thiền sư nơi đây một mặt là người rất chăm chú tu trì giới luật, am tường kinh nghĩa đạo Phật, lấy tham thiền và cầu nguyện làm pháp tu để giải thoát; mặt khác, dường như họ đã thấu hiểu chân lý vô thường, vô ngã, đoạn trừ được các vọng hoặc, giả tướng nên không câu nệ giáo lý, sống an nhiên tự tại giữa đời trần cùng với tín hữu nhân quần và tích cực lo việc trần thế. Các thiền sư như Toàn Nhâm – Vi Ý – Quán Thông (1798-1883), Ấn Lan – Tổ Huệ – Từ Trí (1852- 1921), Ấn Bổn – Tổ Nguyên – Vĩnh Gia (1840-1918),… xứng đáng được coi là những bậc cao tăng tôn quý, được triều đình ân trọng, tưởng thưởng công đức, nhưng không vì thế mà trở nên xa lánh đời tục, ngược lại họnhập thế, cứu rỗi tha nhân. Hình ảnh về một vị tăng cang (Từ Trí) ở hai ngôi quan tự Tam Thai và Linh Ứng qua cảm nhận của Sallet trở nên gần gũi và bình dị lạ thường9.

          Sự tồn tại và hòa quyện nhiều thiền phái

          Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng có sự đa dạng các tông phái thiền. Đầu tiên là sự xuất hiện của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – một tông phái Phật giáo có cội nguồn và mang bản sắc Việt, với những đại diện như Huệ Đạo Minh, Tuệ Minh Quan, Tuệ Lâm Đức, Huệ Quang Minh và Minh Châu – Hương Hải, vào khoảng từ thập niên 30 đến cuối thế kỷ XVII. Bấy giờ, các thiền sư lập chùa hành đạo ở nhiều khu vực thuộc địa bàn nhiều quận/huyện của thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam ngày nay, như Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ, Điện Bàn, thành phố Hội An (bao gồm cả đảo Cù Lao Chàm)10. Đặc biệt, dưới sự hoằng hóa của thiền sư Huệ Đạo Minh và Minh Châu Hương Hải, Phật giáo Trúc Lâm đã vượt ra khỏi không gian chật hẹp của địa phương, mà “danh thơm bủa khắp gần xa” vang đến cả chính dinh Phú Xuân và hơn thế, còn “mang tính quốc tế”11.

          Từ nền tảng Phật giáo Trúc Lâm, cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng đón nhận gần như đồng thời hai thiền phái mới du nhập từ Trung Quốc: Tào Động và Lâm Tế, hình thành các Tổ đình Tam Thai của Quốc sư Hưng Liên – Quả Hoằng, Thái Bình của Nam Đại Hòa thượng tức Thiền sư Đương Cơ – Chân Dĩnh ở khu vực Ngũ Hành Sơn, Chúc Thánh của Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo và Vạn Đức của Minh Lượng – Thành Đẳng – Nguyệt Ân ở khu vực Hội An. Hưng Liên thuộc Tào Động, đời thứ 30. Những thiền tăng khác đều thuộc Lâm Tế. Nhưng Lâm Tế với ba dòng truyền thừa: Đột Không – Trí Bản, Tổ Định – Tuyết Phong và Mộc Trần – Đạo Mân12. Đương Cơ – Chân Dĩnh thuộc dòng Trí Bản – Đột Không; Minh Hải – Pháp Bảo theo dòng kệ của Tổ Định – Tuyết Phong; còn Minh Lượng – Thành Đẳng kế đăng theo cả hai dòng kệ Tổ Định – Tuyết Phong và Đạo Mân – Mộc Trần. Xin nói thêm, không như nhiều dự đoán trước đây cho rằng Minh Lượng khai sơn chùa Vạn Đức vào cuối thế kỷ XVII, mà theo chúng tôi, sớm nhất cũng phải từ những thập niên đầu thế kỷ XVIII13.

          Lúc bấy giờ, do được sự nâng đỡ của chúa Nguyễn nên Tào Động của Hưng Liên có ảnh hưởng rộng lớn không chỉ ở Quảng Nam – Đà Nẵng mà cả khu vực miền Trung, bao gồm cả dinh Phú Xuân. Song, Lâm Tế cũng không kém. Thái Bình tự của Nam Đại hòa thượng nhận được sự biệt đãi của nhiều vị chúa Nguyễn, từ chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đến chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái (1687-1692) rồi Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), hoặc chuẩn miễn tô thuế hoặc cúng hiến tiền của14.

          Đến đầu thế kỷ XVIII, do thiếu cơ sở xã hội vững chắc, Tào Động đã mất dần ảnh hưởng và lụi tàn, nhường chỗ cho Lâm Tế. Nhưng đến đây, Lâm Tế không còn là Lâm Tế như lúc ban đầu mới được du nhập từ Trung Hoa vào Đàng Trong nữa, mà là chi phái nội sinh: Lâm Tế Chúc Thánh thuộc Tổ đình Minh Hải – Pháp Bảo. Và càng về sau, Lâm Tế Chúc Thánh phát triển càng mạnh mẽ tại Quảng Nam – Đà Nẵng. Các đạo tràng lớn như Tam Thai, Linh Ứng (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng), Chúc Thánh, Vạn Đức, Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam) và Cổ Lâm (Đại Lộc, Quảng Nam) đều là sơn môn Chúc Thánh.

          Trên đây là nói về các tông phái Thiền ở hình thức bề ngoài, còn thực chất nội dung, về mặt pháp tu, có sự hòa quyện giữa các tông phái đó mà trong nhiều trường hợp nếu không dựa vào kệ truyền thừa, thì hẳn cũng khó biết được ai thuộc thiền phái nào, nhất là giữa Tào Động và Lâm Tế. Trên lý thuyết, Lâm Tế là “Lâm Tế thống khoái” (tức là tự do, khoáng đạt), chú trọng vô tâm, vô sự; còn Tào Động là “Tào Động tế mật” (chú trọng tọa thiền, hành trì nghiêm mật). Trong thực tế tại Quảng Nam – Đà Nẵng, qua cuộc đời tu chứng của thiền tăng Lâm Tế, cho thấy vừa có Lâm vừa có Tào, Lâm – Tào tổng hợp, điều mà trước đó Thạch Liêm – Thích Đại Sán đã thể hiện.

          Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng còn thể hiện sự dung hợp, hòa quyện giữa Thiền, Tịnh và Mật. Hiện tượng này đã được chứng thực rất rõ ở giai đoạn đầu với các thiền sư thuộc phái Trúc Lâm: Huệ Đạo Minh và Minh Châu – Hương Hải. Với Huệ Đạo Minh, yếu tố Tịnh Độ tỏ ra quan yếu. Đoạn khấn nguyện trong văn bia Ngũ Uẩn sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc,15 như đã biết, là của Từ Vân Tuân Thức, người thuộc tông Thiên Thai chủ trương pháp tu Tịnh Độ16. Và không nghi ngờ gì, đoạn văn trên đã biểu thị tính trội của tư tưởng cầu ngoại lực trên con đường tu tập của thiền sư Huệ Đạo Minh, đồng thời đề cao phương thức tụng niệm và lễ bái, một yếu tố cốt lõi của Tịnh Độ tông. Khác với Huệ Đạo Minh, Minh Châu – Hương Hải khi tu trì ở Cù Lao Chàm, có thiên hướng coi trọng Mật tông. Ông đã dùng nhiều pháp thuật trừ yêu tinh quấy phá, rồi trì kinh đọc chú bảy ngày đêm chữa bệnh cho vợ quan trấn thủ Quảng Nam – Thuần Quận Công, lập đàn sám hối cho Hoa Lễ Hầu. Rõ ràng, nếu yếu tố Mật tông nổi bật ở Minh Châu – Hương Hải thì ở Huệ Đạo Minh yếu tố Tịnh Độ lại trở nên thắng thế. Tại sao như vậy? Lý do cơ bản, có lẽ là sự khác nhau về môi trường hành đạo của các thiền sư. Ngũ Hành Sơn không giống Cù Lao Chàm; và, quần chúng tín hữu của Huệ Đạo Minh khác quần chúng tín hữu của Minh Châu – Hương Hải. Bấy giờ, bao quanh Ngũ Hành Sơn đã là những làng xã Việt có kinh tế tương đối phát triển. Hơn thế nữa, Ngũ Hành Sơn có vị trí đặc biệt khi nó nằm bên cạnh tuyến thủy lộ huyết mạch nối cảng tạm dừng Đà Nẵng và phố cảng quốc tế Hội An đang trên đà hưng thịnh. Ở Hội An – như ta thấy, đã hình thành những phố định cư của người Nhật và người Hoa, là đối tượng quần chúng rất tín ngưỡng Tịnh Độ giáo. Trong khi đó, Cù Lao Chàm nơi Hương Hải tu trì, hẳn còn nhiều hoang sơ, đời sống tinh thần còn đậm chất mê tín, văn hóa Phật giáo chưa được lan truyền rộng rãi. Rõ ràng, tình hình đó đặt ra yêu cầu Huệ Đạo Minh phải đề cao yếu tố Tịnh Độ nhằm thỏa mãn niềm tin của giới thương nhân; còn với Hương Hải buộc phải thi triển năng lực tu hành như là cách vừa để an dân, vừa tạo uy tín cá nhân để dễ dàng truyền đạo. “Thuật” hành đạo kiểu Hương Hải chúng ta đã bắt gặp không ít trong lịch sử Phật giáo nước nhà, từ khởi thủy cho đến giai đoạn đỉnh cao thời Lý – Trần.

          Không chỉ giai đoạn đầu, sự dung hợp ba yếu tố Thiền, Tịnh, Mật xuyên suốt cả thời kì sau của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng. Nhiều hoạt động nghi lễ mang đậm yếu tố Mật giáo đã được tổ chức, như trai đàn, cầu mưa; sư tăng vẫn dùng pháp thuật, niệm kinh chú giúp dân chữa bệnh, trừ tà. Nhưng phải nói rằng, sự hòa quyện giữa Thiền và Tịnh là đậm nét hơn cả. Sau Huệ Đạo Minh của phái Trúc Lâm, các thiền tăng phái Lâm Tế, đặc biệt dòng Lâm Tế Chúc Thánh cũng rất đề cao pháp môn niệm Phật, tu theo Tịnh Độ. Nghiên cứu của Thích Đồng Dưỡng, cho thấy trong các bản kinh sách Phật giáo in ấn tại Quảng Nam thời chúa Nguyễn, loại thuộc về Tịnh Độ tông là phổ biến17. Còn qua Ngũ Hành Sơn lục cùng một số tư liệu khác thì Thiền – Tịnh song tu được biểu hiện rất rõ ràng. Họ kết hợp thiền và niệm, sử dụng cả nội lực và tha lực; vừa tụng đọc kinh văn, cầu Phật chứng giám để tiêu trừ nghiệp chướng, vừa tham thiền nhập định, tịnh tâm để khai ngộ trí huệ, đoạn trừ vô minh, đạt đến sự ung dung, tự tại.

          Nếu nhìn từ dân gian, thì có lẽ duy chỉ tồn tại Phật giáo Tịnh Độ. Với dân chúng, họ đến chùa không phải để hành thiền mà là để cầu nguyện mong được an lành, hạnh phúc, được sinh vào nước Cực Lạc sau khi chết. Hàng loạt văn bia, văn chuông đã ghi lại những mong mỏi đầy thực dụng đó ở các chùa dân gian. Xin trích một đoạn trong minh chung chùa Tây Linh (huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa), khắc năm Cảnh Hưng thứ 16 (1755): “Một trăm lẻ tám tiếng chuông mở được mười tám tầng địa ngục, cứu thoát cô hồn mười loài quỷ, để lại ơn phước mãi mãi lâu dài, kế tục đời đời dài lâu. Trên là chúc đương kim thánh thượng tuổi thọ càng tươi, bổn đạo toàn làng tăng thêm tuổi, dân mạnh của nhiều, mưa thuận gió hòa, người người đều phước đức tốt đẹp, vật vật đều bình yên. Kính nguyện: Tổ tiên con cháu chín đời, cha mẹ bà con đều thoát (địa ngục) siêu thăng, cùng sinh vào nơi an lạc”18.

          Tóm lại, Phật giáo đất Quảng, trong đó có dòng thiền Chúc Thánh đóng giữ đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội địa phương. Nó nâng đỡ con người về mặt tinh thần; nó đặt ra mục tiêu và đồng thời cũng là phương tiện để con người tiến đến sự hoàn thiện, xây dựng xã hội an lạc. Và cũng nhờ vậy, dòng thiền Chúc Thánh ngày một lan xa./

LÊ XUÂN THÔNG
Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ

 

 

_Chú thích:

1. Cả hai đều thuộc bia ma nhai, tức được khắc trực tiếp trên vách đá. Chữ trên bia Ngũ Uẩn sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc đã bị mòn mờ, thậm chí mất hẳn không thể đọc được. May mắn là cách đây gần một thế kỷ, văn bia này đã được Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp in rập thác bản và lưu trữ tại Hà Nội. Văn bia hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu 12622B. Gần đây, nó được in chụp và công bố trong bộ tổng tập văn khắc Hán Nôm rất đồ sộ, do Viện Cao học thực hành (Pháp), Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp phối hợp thực hiện. Chúng tôi sẽ chú rõ nội dung đoạn văn bia kể trên trong phần bàn về đặc điểm thứ hai của Phật giáo xứ Quảng. Về sư Huệ Đạo Minh, xin tham khảo: Lê xuân Thông (2016), “Mạch nguồn Thiền phái Trúc Lâm trong Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thế kỷ XVII”, Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, số 6, tr. 41-50.

2. Minh Châu Hương Hải là một danh tăng của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII. Thời gian đầu, ông dựng thảo am tu trì tại đảo Tiêm Bút La (Cù lao Chàm). Trước tác của Minh Châu Hương Hải, theo Hương Hải thiền sư ngữ lục, ngoài 20 tác phẩm chú giải kinh luận và một bài kệ, còn có 16 đoạn trích văn xuôi cùng 58 bài thơ. Tuy nhiên, Lê Mạnh Thát đã khảo cứu và cho rằng chỉ khoảng 4 bài thơ trong tổng số thơ văn kể trên chính xác là của thiền sư, còn lại hầu hết có xuất xứ từ Trung Hoa hoặc không đáng tin cậy. Xem: Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Nxb TP Hồ Chí Minh.

3. Lê Xuân Thông (2020), “Về hai thiền sư Minh Hải Pháp Bảo và Minh Lượng Nguyệt Ân của Phật giáo xứ Quảng (và Đàng Trong) thế kỷ XVIII”, Đặc san Nghiên cứu lịch sử xứ Quảng, Số 15, Nxb Đà Nẵng, tr.115-124. Có nhà nghiên cứu cho biết Minh Hải còn một bài kệ phú chúc trước lúc thị tịch, rằng:

 

Phiên âm:                                         Dịch nghĩa:

Nguyên phù pháp giới không           Pháp giới như mây nổi

Chơn như vô tánh tướng                 Chân như không tánh tướng

Nhược liễu ngộ như thử                   Nếu hiểu được như vậy

Chúng sanh dữ Phật đồng                Chúng sanh với Phật đồng

 

Xem: Thích Như Tịnh (2009), Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, Nxb Phương Đông, TP HCM, tr. 110.

Bài kệ mang mang tư tưởng triết học sâu sắc. Tuy nhiên, nếu đây thực sự

của Minh Hải thì cũng không có gì mới, bởi tư tưởng này không xa lạ trong Phật giáo Việt Nam, nhất là thời Lý – Trần. Hãy nghe đoạn đối đáp giữa vua Lý Thái Tông và Huệ Sinh thông qua hai bài kệ sau:

 

Nhà vua: Huệ Sinh:

Bát nhã vốn không tông                    Pháp cũng như vô pháp

Nhân không, ngã cũng không           Không hữu cũng không không

Ba đời các đức                                  Phật Nếu đạt được lẽ ấy

Pháp tính vốn chung đồng                Chúng sinh với Phật đồng.

 

Xem: Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 122-123.

4. Pháp Kiêm – Luật Oai – Minh Giác, đời thứ 3 dòng Lâm Tế Chúc Thánh, là một trong những đệ tử của Thiền sư Ân Triêm. Tư liệu nói về ông có thể tìm thấy ở long vị, văn bia tháp, bản kê khai hiện vật và các đời trú trì chùa Phước Lâm của ông Lê Văn Thể tức Hòa thượng Phổ Minh (1923), nhưng văn bia Kế hòa thượng thuật là sử liệu đầy đủ, xác đáng nhất. Bia do Hòa thượng Vĩnh Gia (1840-1918) lập, khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhằm khắc lại lời trang thuật của một người là Giác Trai cư sĩ Lê Tự Phu về Hòa thượng Minh Giác, năm Tự Đức thứ 22 (1869). Xem: Văn bia Kế hòa thượng thu, chùa Phước Lâm, Cẩm Hà, Hội An, Quảng Nam.

5. Văn bia viết: Năm 22 tuổi, chùa chiền bị bãi bỏ, tăng bèn hoàn hương, nhập binh tòng chinh (Niên nhị thập nhị bãi tự, tăng hoàn hương, thụ binh phần tòng chinh). Chúng tôi chưa hiểu vì sao có hiện tượng “chùa chiền bị bãi bỏ”; và liệu việc ông nhập binh có phải là sự bắt buộc hay không.

6. Có lẽ là cuộc dẹp loạn Thạch Bích Man tức Mọi Đá Vách ở miền Tây Quảng Ngãi, dưới sự chỉ huy của Cai bạ Trần Phúc Thành, năm 1770. Thạch Bích Man là tên gọi mà chính quyền chúa Nguyễn (và cả triều Nguyễn sau này) dùng để chỉ nhóm các dân tộc thiểu số – chủ yếu là người Hre – sống ở vùng núi phía Tây Quảng Ngãi, nơi có những tảng đá đứng thẳng, trông lên như vách đá. Lịch sử đã ghi nhận nhiều cuộc nổi dậy, quấy phá của Thạch Bích Man, bắt đầu từ thế kỷ XVI và ngày càng thường xuyên hơn, nhất là dưới triều Nguyễn. Dưới thời chúa Nguyễn, giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII, nhiều danh tướng đã được điều đến tiễu bình Thạch Bích Man, bắt đầu từ Nguyễn Cư Trinh đến Đặng Đại Lược, Trần Phúc Thành.

7. Tài liệu chữ Hán, do tú tài Hồ Thăng Doanh – một nho sĩ cùng Thiền sư Ấn Lan Tổ Huệ Từ Trí – một danh tăng của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng sống vào nửa sau thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX – và một số người khác,

hoàn thành năm 1916. Trong tài liệu này, ngoài việc giới thiệu về cụm núi đá Ngũ Hành Sơn, các tác giả đã có những thông tin khái lược về Phật giáo tại danh thắng kì thú này, trong đó, dành một phần đáng kể để viết về các thiền tăng tu chứng trong thế kỉXIX và những năm đầu thế kỉXX.

8. Sallet, A (2002), “Núi đá hoa cương (Ngũ Hành Sơn)”, Những người bạn cố đô Huế (B.A.V.H), Tập XI, 1924, tr.5-209. Hẳn là A.Sallet không có ý nghiên cứu về Phật giáo. Tuy vậy, với lối trình bày linh hoạt, uyển chuyển, rải rác trong suốt hơn 150 trang sách viết về Ngũ Hành Sơn gồm rất nhiều mảng nội dung khác nhau, chúng ta vẫn tìm gặp nhiều thông tin về Phật giáo và liên quan đến Phật giáo tại đây. Công bằng mà nói, những cung cấp của A.Sallet phần nhiều đã được nói tới trong các bộ sách của triều Nguyễn và đặc biệt, là trong Ngũ Hành Sơn lục mà đôi chỗ ông chưa tham khảo hết, thậm chí chưa khảo chính một cách chuẩn xác. Song, cũng phải ghi nhận, ông đã để lại cho chúng ta không ít thông tin có ý nghĩa, như những miêu tả về nghi lễ, tín ngưỡng, diện mạo chùa chiền và hoạt động Phật sự tại Ngũ Hành Sơn đầu thế kỉXX, do chính ông mắt thấy tai nghe. Tất cả giúp hiểu thêm một số vấn đề về Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng từ trung tâm Ngũ Hành Sơn.

9. Về những danh tăng vừa kể, xem thêm: 1. Sallet, A (2002), “Núi đá hoa cương (Ngũ Hành Sơn)”, Những người bạn cố đô Huế (B.A.V.H), Tập XI, 1924, tr.5-209; 2. Thích Như Tịnh (2008), Hành trạng chư thiền đức xứ Quảng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 3. Lê Xuân Thông (2014), “Thiền sư đầu tiên của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng được triều Nguyễn sắc chuẩn Tăng cang”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, Số 207, tr.42-43.

10. Thực ra còn thêm một thiền sư nữa cũng có tên tự Huệ Đạo Minh, tục danh là Nguyễn Hữu Tài, xuất hiện ở mặt trước văn bia chùa Bảo Khánh, lập năm Bính Tý niên hiệu Chính Hòa (1696). Trường hợp Minh Châu Hương Hải, dù được kế đăng theo phái Lâm Tế, dòng Trí Bản Đột Không nhưng thực chất về tư tưởng lại thuộc phái Trúc Lâm của Đại Việt. Xem: Lê xuân Thông (2016), “Mạch nguồn Thiền phái Trúc Lâm trong Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thế kỷ XVII”, Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 6, tr.41-50.

11. Đây là nhận định của Lê Mạnh Thát về Phật giáo ở Ngũ Hành Sơn, được xiển dương bởi sư Huệ Đạo Minh, giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVII. Lê Mạnh Thát (2011), “Mấy cảm nghĩ về “Ngũ Hành Sơn – vùng lịch sử, văn hóa tâm linh”, trong sách: Ngũ Hành Sơn – vùng lịch sử, văn hóa tâm linh, tr. 19-20.

12. Ta biết rằng tông Lâm Tế từ sau khi được Tổ Nghĩa Huyền (?-867) khai sáng đã phát triển cực mạnh tại Trung Quốc rồi đến Nhật Bản, Việt Nam. Trên đất Trung Quốc, nội bộ tông Lâm Tế xuất hiện nhiều dòng thiền có sức ảnh hưởng lớn gắn với tên tuổi của các sơ tổ xuất kệ lập phái, trong đó có những dòng như Tổ Định Tuyết Phong, Trí Bản Đột Không, Đạo Mân Mộc Trần lan đến Việt Nam, nhất là tại Đàng Trong. Tổ Định Tuyết Phong đời thứ 22, xuất kệ lập phái: Tổ đạo giới định tông/ Phương quảng chứng viên thông/Hành siêu minh thật (thiệt) tế/Liễu đạt ngộ chân không. (Nhiều người cho bài kệ này là của Vạn Phong Thời Ủy đời thứ 21). Trí Bản Đột Không (1381-1449) đời thứ 25, xuất kệ lập phái: Trí huệ thanh tịnh/ Đạo đức viên minh/ Chân như tính hải/ Tịch chiếu phổ thông. Mộc Trần Đạo Mân (1596-1674) đời thứ 31, xuất kệ lập phái: Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên/ Minh như hồng nhật lệ trung thiên/ Linh nguyên quảng nhuận từ phong thổ/ Chiếu thế chân đăng vạn cổ huyền.

13. Xem: Lê Xuân Thông (2014), “Ngũ Hành Sơn – Một trung tâm Phật giáo của Quảng Nam – Đà Nẵng thế kỷ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 7, tr.66-77; Lê Xuân Thông (2020), “Về hai thiền sư Minh Hải Pháp Bảo và Minh Lượng Nguyệt Ân của Phật giáo xứ Quảng (và Đàng Trong) thế kỷ XVIII”, Đặc san Nghiên cứu lịch sử xứ Quảng, Số 15, Nxb Đà Nẵng, tr. 115-124.

14. “Ngũ Hành Sơn – Một trung tâm Phật giáo của Quảng Nam – Đà Nẵng thế kỷ XVII”, sđd, tr. 66-77.

15. Đoạn trong văn bia: “Con nguyện lấy ánh sáng thanh tịnh soi sáng bản thân, lời thề từ bi gắn với bản thân, nay con suy nghĩ chân chính, niệm danh hiệu Như Lai, thực hành đạo Bồ Đề, mong sinh vào cõi Tịnh độ. Xưa Phật có lời thề: Nếu có chúng sinh muốn sinh vào cõi của ta, thì chí và tâm phải đều tin là sẽ được an lạc, niệm đến mười lần. Nếu không được sinh vào cõi của ta thì ta không nhận lấy chánh giác. Lấy nhân duyên niệm Phật này, được vào trong biển thề nguyền của Phật Như Lai, nương theo sức từ bi của Phật, tất cả các tội đều được tiêu diệt, gốc lành tăng trưởng, đến lúc lâm chung, tự biết thời khắc sắp đến, thân không đau đớn vì bệnh, lòng chẳng tham lam quyến luyến, ý chẳng rối loạn, như vào lúc thiền định, được Phật và các thánh tay cầm đài vàng, đến tiếp dẫn ta, trong khoảnh khắc một niệm, được sinh vào nước cực lạc. Hoa sen nở được thấy Phật, liền đuọc nghe kinh Phật, liền mở trí huệ Phật, độ khắp cho chúng sinh, trọn vẹn nguyện bồ đề”.

16. Ông từng đốt một ngón tay trước tượng Bồ tát Phổ Hiền phát nguyện truyền bá giáo pháp Thiên Thai. Ông soạn rất nhiều sách về nghi thức sám hối, niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh Độ. Người đương thời tôn gọi ông là Từ Vân sám chủ, Bách bàn sám chủ, Từ Vân tôn giả, Thiên Trúc sám chủ. Xem: Phật Quang đại từ điển (2014), Tập 6, Nxb Phương Đông, TP Hồ Chí Minh, tr. 7230-7231.

17. Thích Đồng Dưỡng (2019). “Điển tịch cổ Phật giáo khắc in tại Quảng Nam thời chúa Nguyễn”, Tập san Liễu Quán, Số 17, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.74-82.

18. Văn chuông chùa Tây Linh, Chùa Long Sơn, Hòa Khánh Nam, Liên Chiểu, ĐàNẵng. Xem: Lê Xuân Thông (2014), “Quả chuông chùa Tây Linh và một nghi vấn”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, Số 202, tr. 33-35.

 

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

1- Lê Xuân Thông (2016), “Mạch nguồn Thiền phái Trúc Lâm trong Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng thế kỷ XVII”, Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 6.

2- Lê Xuân Thông (2014), “Thiền sư đầu tiên của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng được triều Nguyễn sắc chuẩn Tăng cang”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, Số 207.

3- Lê Xuân Thông (2020), “Về hai thiền sư Minh Hải Pháp Bảo và Minh Lượng Nguyệt Ân của Phật giáo xứ Quảng (và Đàng Trong) thế kỷ XVIII”, Đặc san Nghiên cứu lịch sử xứ Quảng, Số 15, Nxb Đà Nẵng

4- Lê Xuân Thông (2014), “Ngũ Hành Sơn – Một trung tâm Phật giáo của Quảng Nam – Đà Nẵng thế kỷ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 7, tr. 66-77.

5- Lê Xuân Thông (2014), “Quả chuông chùa Tây Linh và một nghi vấn”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, Số 202.

6- Lê Mạnh Thát (2011), “Mấy cảm nghĩ về “Ngũ Hành Sơn – vùng lịch sử, văn hóa tâm linh”, trong sách: Ngũ Hành Sơn – vùng lịch sử, văn hóa tâm linh.

7- Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Nxb TP HồChíMinh.

8- Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà Nội.

9- Ngũ Hành Sơn lục, Tài liệu chữ Hán, do tú tài Hồ Thăng Doanh – một nho sĩ cùng thiền sư Ấn Lan Tổ Huệ Từ Trí – một danh tăng của Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng sống vào nửa sau thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX – và một số người khác, hoàn thành năm 1916.

10- Phật Quang đại từ điển (2014), Tập 6, Nxb Phương Đông.

11- Sallet, A (2002), “Núi đá hoa cương (Ngũ Hành Sơn)”, Những người bạn cố đô Huế (B.A.V.H), Tập XI, 1924.

12- Thích Đồng Dưỡng (2019). “Điển tịch cổ Phật giáo khắc in tại Quảng Nam thời chúa Nguyễn”, Tập san Liễu Quán, Số 17, Nxb Thuận Hóa, Huế.

13- Thích Như Tịnh (2009), Lịch sử truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, Nxb Phương Đông.

14- Thích Như Tịnh (2008), Hành trạng chư thiền đức xứ Quảng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

15- Văn bia Kế hòa thượng thu, Chùa Phước Lâm, Cẩm Hà, Hội An, Quảng Nam.