Thế kỷ XVII-XVIII là thời kỳ Thiền phái Lâm Tế, Tào Động truyền vào Đàng Trong và phát triển mạnh mẽ thông qua sự hoằng pháp của chư Tổ người Trung Hoa1 và Việt Nam. Trong đó, Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh được khai sáng bởi Tổ Sư Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo tại chùa Chúc Thánh, tỉnh Quảng Nam, có những nét đặc sắc, truyền thừa nhiều đời, với những vị Thiền sư, cao Tăng lỗi lạc, đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước và Phật giáo ở phương Nam. Đến thế kỷ XX, thiền phái này vẫn được duy trì, có nhiều bậc tôn túc tiếp tục con đường của Tổ Minh Hải, truyền nối theo dòng kệ của Thiền phái. Đồng thời, có thiền sư bắt nguồn từ phổ hệ truyền thừa này, lại phát nguyện khôi phục Thiền phái Trúc Lâm2 đời Trần để làm rạng rỡ cho nền Thiền học Việt Nam giai đoạn cận hiện đại, đó là Thiền sư Thích Thanh Từ.
Nếu Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo là người thuộc tông Lâm Tế, khai sơn Thiền phái Chúc Thánh ở khu vực miền Trung, thì Thiền sư Thích Thanh Từ lại là người thuộc Thiền phái Chúc Thánh, có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm ở vùng đất Nam bộ.
Như vậy, cùng với Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch truyền thừa Lâm Tế chánh tông trước đó theo dòng “Tổ đạo giới định tông” và Lâm Tế gia phổ theo dòng “Đạo bổn nguyên thành Phật Tổ tiên”, Thiền sư Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo tiếp tục truyền bá tông Lâm Tế ở Đàng Trong với một sắc thái khác, theo dòng kệ truyền thừa mới, gọi là Lâm Tế Chúc Thánh. Dòng truyền thừa này phát triển mạnh mẽ thời Tổ sư còn tại thế cũng như các thế kỷ sau tiếp theo, không chỉ ở vùng đất khai sáng là Quảng Nam, mà còn phát triển ra khắp các tỉnh miền Trung, miền Nam, cả nước và quốc tế.
Chủ trương tu tập
Thiền phái Chúc Thánh bắt nguồn từ tông Lâm Tế, nên những chủ trương cơ bản của Thiền phái này vẫn bao gồm một số đặc điểm cơ bản của như: khuyến khích hành giả tham thiền thông đạt tam huyền3, thấu suốt tam yếu4, thực hành tứ liệu giản5. Việc tham thiền công án, khán thoại đầu, dùng phất tử đánh hét, chúng ta ít thấy Thiền phái Chúc Thánh nhấn mạnh, có lẽ để thích nghi với căn cơ, truyền thống tu tập của người Việt và xứ Đàng Trong, nên những đặc điểm này của tông Lâm Tế ở Trung Quốc được điều chỉnh ít nhiều.
Thông qua cuộc đời của Tổ sư Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo và các Thiền sư lỗi lạc của Thiền phái Chúc Thánh như: Pháp Chuyên – Luật Truyền – Diệu Nghiêm, Pháp Kiêm – Luật Oai – Minh Giác, Thị Thủy – Hành Pháp – Quảng Đức,6… chúng ta thấy Thiền phái Chúc Thánh có chủ trương kết hợp giữa việc hành Thiền với tham vấn đạo lý, bồi công lập đức, sám hối nghiệp chướng. Đồng thời tư tưởng Thiền – Tịnh song hành cũng được áp dụng, nên các vị cao Tăng của Thiền phái vẫn niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ. Không những thế, Thiền phái còn nhấn mạnh đến yếu tố nhập thế, đồng hành cùng dân tộc, hộ quốc an dân.
Chủ trương Thiền tông kết hợp Tịnh độ chắc chắn bắt nguồn từ Tổ Minh Hải, tiếp thu trực tiếp từ Thiền sư Nguyên Thiều và Thiền sư Thạch Liêm, bởi đây là hai vị tôn túc đều nhấn mạnh đến Thiền Tịnh song tu. Chính Tổ là người có nhiều duyên tiếp xúc, học đạo với hai bậc tôn túc này trong thời gian ở Thuận Hóa, Quảng Nam, thậm chí có nơi còn cho Ngài là đệ tử y chỉ của Thiền sư Nguyên Thiều. Đối với những nơi Phật pháp mới truyền vào, có lẽ chủ trương Thiền Tịnh song tu dễ được chấp nhận: “với tâm lý của những người mới di cư vào vùng Quảng Nam lúc bấy giờ, tín ngưỡng Di Đà, quy kính Tịnh Độ là chỗ dựa tinh thần vững chắc, an ổn nơi mảnh đất đầy sơn lam chướng khí này”7.
Về chủ trương hộ quốc an dân, ngay trong bài kệ truyền pháp danh của Thiền phái Chúc Thánh, chúng ta đã thấy được phần nào tư tưởng này. Trước hết, cốt lõi của việc tu hành là phải đạt được giác ngộ, thấu suốt thể tánh chân như: “minh thiệt pháp toàn chương” (hiểu thấu pháp chân thực). Bước tiếp theo là phát huy tinh thần vô ngã vị tha, đi vào cuộc đời giúp dân, cứu nước, để làm cho quốc gia hưng thịnh, thiên hạ thái bình: “kỳ quốc tộ địa trường” (cầu đất nước vững bền).
Ở bài kệ truyền pháp tự, chủ trương giữ gìn giới luật, phát huy thiền định, trí tuệ, hạnh giải tương ưng được nhấn mạnh. Người tu nếu hoàn thiện được cả hai mặt, tuệ giải và pháp hành, lời nói đi đôi với việc làm, thì sẽ đạt được giác ngộ một cách dễ dàng. Có như vậy, đức hạnh mới lan tỏa khắp muôn nơi, làm cho Phật pháp được cửu trụ vững bền.
Những nét đặc sắc trên của Thiền phái Chúc Thánh đã giúp cho các vị Tổ sư, Thiền sư, cao Tăng dễ dàng chuyển tải đạo lý Phật pháp đến với mọi vùng miền, thích hợp cả với tầng lớp bình dân lẫn trí thức. Đây là đặc điểm khá chung của một số tông phái Phật giáo Việt Nam, làm nền tảng vững chãi cho sự duy trì, truyền bá của các thế hệ kế thừa.
Sự truyền thừa và một số Tổ đình, danh Tăng tiêu biểu
Khởi nguồn từ Quảng Nam, Thiền phái Chúc Thánh đã phát triển mạnh mẽ ra các tỉnh lân cận ở miền Trung, miền Nam, cả nước và hải ngoại. Suốt hơn 300 năm hình thành và phát triển, với hàng trăm tự viện lưu dấu các vị danh Tăng của Thiền phái Chúc Thánh, đến nay dòng truyền thừa đã kéo dài đến đời thứ 14, tức chữ Thiên trong câu “Chúc thánh thọ thiên cửu”.
Tại khu vực miền Trung, đầu tiên phải kể đến là Tổ đình Chúc Thánh ở Hội An, Quảng Nam, tiếp đó là các ngôi Tổ đình như: Vạn Đức, Phước Lâm, Cổ Lâm ở Quảng Nam; Tam Thai ở Đà Nẵng. Thừa Thiên Huế có Tổ đình Viên Thông, chùa Phước Huệ. Quảng Ngãi có Tổ Đình Thiên Ấn, Viên Quang, Phước Quang, Quang Lộc. Bình Định có Tổ đình Sơn Long, Thiên Hòa, Phổ Bảo, Thắng Quang, Thiên Bình. Phú Yên có Tổ đình Từ Quang, Phước Sơn, Triều Tôn, Khánh Sơn. Khánh Hòa có Tổ đình Hội Phước, Linh Sơn. Ninh Thuận có Tổ đình Thiền Lâm, Thiên Hưng. Bình Thuận có chùa Linh Long, chùa Pháp Bảo, chùa Pháp Hội.
Khu vực miền Nam, tại Thành phố Hồ Chí Minh có Tổ đình Tập Phước, Hưng Long, Đông Hưng, Quán Thế Âm. Bình Dương có Tổ đình Hội Khánh, Thiên Tôn. Vĩnh Long có Tổ đình Phước Hậu. Đồng Nai có chùa Long Thọ, chùa Tịnh Quang.
Ở Tây Nguyên, tỉnh Lâm Đồng có Chùa Linh Phước, Chùa Linh Sơn, Vĩnh Minh Tự Viện. Đắk Lắk có Chùa Dược Sư. Đắk Nông có Chùa Pháp Hoa. Kon Tum có Tổ đình Bác Ái.
Tại các nước trên thế giới, khu vực châu Âu có chùa Linh Sơn (Pháp), chùa Viên Giác (Đức), chùa Khuông Việt (Na Uy). Tại Mỹ có Tu viện Kim Cương, chùa Quan Âm, chùa Phổ Đà, An Tường tự viện. Tại Úc có chùa Bảo Vương, chùa Pháp Hoa, chùa Pháp Bảo.
Những vị Tổ sư, Thiền sư, cao Tăng của Thiền phái Chúc Thánh bắt đầu từ đời thứ nhất là Tổ sư khai sáng Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo, rồi lần lượt, “từ Quảng Nam, các Ngài đã đem tông chỉ của Tổ đi hoằng hóa khắp các tỉnh miền Trung và Nam bộ khiến cho tông môn phát triển nhanh chóng sâu rộng”8. Dưới đây là chư vị danh tăng kế thừa tiêu biểu:
Đời thứ hai có các ngài: Thiệt Dinh – Chánh Hiển – Ân Triêm, Thiệt Diệu – Chánh Hiền, Thiệt Hội – Viên Quang, Thiệt Úy – Chánh Thành – Khánh Vân, Thiệt Thuận – Chánh Mạng – Huệ Trương, Thiệt Bảo – Cảm Ứng, Thiệt Đăng – Chánh Trí – Bửu Quang.
Đời thứ ba có các ngài: Pháp Kiêm – Luật Oai – Minh Giác, Pháp Chuyên – Luật Truyền – Diệu Nghiêm, Pháp Ấn – Tường Quang – Quảng Độ, Pháp Diễn – Bảo Tràng, Pháp Tịnh – Luật Phong – Viên Quang, Pháp Tràng – Quang Chánh – Bửu Đài, Pháp Mãn – Luật Viên – Truyền Thành, Pháp Nhân – Thiên Trường, Pháp Thân – Đạo Minh.
Đời thứ tư có các ngài: Toàn Nhân – Vi Ý – Quán Thông, Toàn Chiếu – Trí Minh – Bảo Ấn, Toàn Ý – Vi Tri – Phổ Huệ, Toàn Tín – Đức Thành, Toàn Thể – Vi Lương – Linh Nguyên, Toàn Nhật – Vi Bảo – Quang Đài, Toàn Đạo – Mật Hạnh, Toàn Tánh – Chánh Giác, Toàn Định – Vi Quang – Bảo Tạng.
Đời thứ năm có các ngài: Chương Tư – Tuyên Văn – Huệ Quang, Chương Quảng – Tuyên Châu – Mật Hạnh, Chương Nhẫn – Tuyên Tâm – Từ Nhân, Chương Khước – Tông Tuyên – Tánh Giác, Chương Thiện – Tuyên Giác – Hoằng Đạo, Chương Từ – Tông Trực – Quảng Thiện, Chương Huấn – Tông Giáo, Chương Đắc – Trí Tập.
Đời thứ sáu có các ngài: Ấn Bổn – Tổ Nguyên – Vĩnh Gia, Ấn Lan – Tổ Huệ – Từ Trí, Ấn Nghiêm – Tổ Thân – Phổ Thoại, Ấn Hướng – Tổ Đồng – Pháp Nhãn, Ấn Tham – Tổ Vân – Hoằng Phúc, Ấn Kim – Tổ Tuân – Hoằng Tịnh, Ấn Lãnh – Tổ Tòng – Hoằng Thạc, Ấn Thiên – Tổ Hòa – Huệ Nhãn, Ấn Long – Thiện Quới, Ấn Chí – Tổ Chấp – Hoằng Chỉnh.
Đời thứ bảy có các ngài: Chơn Pháp – Đạo Diệu – Phước Trí, Chơn Tá – Đạo Hóa – Tôn Bảo, Chơn Ngọc – Đạo Bảo – Long Trí, Chơn Kim – Pháp Lâm, Chơn Kiết – Đạo Tường – Phổ Hóa, Chơn Trung – Đạo Chí – Diệu Quang, Chơn Khai – Đạo Thị – Khánh Tín, Chơn Hương – Chí Bảo, Chơn Giám – Đạo Quang – Trí Hải, Chơn Phước – Đạo Thông – Huệ Pháp, Chơn Chánh – Đạo Tâm – Pháp Tạng, Chơn Hương – Thiện Quang, Chơn Tâm – Đạo Tánh – Viên Minh, Chơn Cảnh – Đạo Thông – Trí Thắng, Chơn Trừng – Đạo Thanh – Hưng Duyên, Chơn Miên – Đạo Long – Trí Hưng, Chơn Thanh – Từ Văn, Chơn Phổ – Minh Tịnh, Chơn Thành – Đạo Tín – Khánh Ngọc, Chơn Quý – Đạo Trân – Khánh Anh, Chơn Bích – Đạo Liên – Trí Huy, Chơn Điển – Đạo Phước.
Đời thứ tám có các ngài: Như Quang – Giải Chiếu – Trí Minh, Như Vạn – Giải Thọ – Trí Phước, Như Nhàn – Giải Lạc – Trí Giác, Như Thừa – Giải Trí – Hoằng Nguyện, Như Chánh – Giải Trực – Huyền Tấn, Như Bình – Giải An – Huyền Tịnh, Như Phước – Giải Tiềm – Huyền Ý, Như Hòa – Tâm Ấn, Như Huệ – Thanh Nguyên – Hoằng Thông, Như Đăng – Giải Chiếu – Trí Độ, Như Từ – Tâm Đạt, Như An – Giải Hòa – Huyền Quang, Như Đắc – Giải Tường – Thiền Phương, Như Huệ – Giải Thức – Thiền Tâm, Như Đạt – Giải Nghĩa – Hoằng Thâm, Như Thọ – Giải Thoát – Huyền Tân, Như Hương – Giải Vị – Huyền Tâm, Như Hạnh – Giải Uyên – Huyền Thâm, Như Quang – Giải Đạo – Hoằng Phúc, Như Tiến – Giải Hinh – Quảng Hưng, Như Điển – Giải Trà – Huệ Chấn, Như Thiện – Giải Năng – Hoàn Quan, Như Cự – Viên Chiếu, Như Thượng – Thường Chiếu, Như Trạm – Tịch Chiếu, Như Quả – Giải Nhơn – Hoàn Tuyên, Như Mẫn – Giải Phật – Hoàn Phú, Như Kế – Giải Đạo – Huyền Vi, Như Điển – Giải Minh – Trí Tâm, Như Lễ – Huyền Dung, Như Kế – Giải Tích – Huyền Tôn, Như Huệ – Giải Trí – Trí Thông, Ni trưởng Như Ái – Tịnh Viên – Hoằng Thâm, Ni trưởng Như Hường – Giải Liên – Thọ Minh.
Đời thứ chín có các ngài: Thị Năng – Trí Hữu – Hương Sơn, Thị Bình – Diệu Khai, Thị Hoàng – Hạnh Đức – Giác Bình, Thị Công – Trí An – Đồng Thiện, Thị Huệ – Hạnh Giải – Bảo An, Thị Chí – Hành Thiện – Phước Hộ, Thị Niệm – Hành Đạo – Phước Ninh, Thị Tín – Hành Giải – Phước Trí, Thị Thọ – Hành Giáo – Nhơn Hiền, Thị Tấn – Hạnh Phát – Phước Huệ, Thị Khai – Hạnh Huệ – Đỗng Minh, Thị Lạc – Hạnh Thiện – Hưng Từ, Thị Thủy – Hành Pháp – Quảng Đức, Thị Niệm – Hành Nguyện – Viên Thành, Thị An – Hành Trụ – Phước Bình, Thị Lộc – Thành Văn – Nguyên Ngôn, Thị Huê – Thiện Hương, Thị Uẩn – Hành Đạo – Thuần Phong, Thiền sư Thích Thanh Từ, Ni trưởng Thị Hương – Từ Đăng – Diệu Hoa, Ni trưởng Tâm Đăng – Hạnh Viên – Chơn Như.
Đời thứ mười có các ngài: Đồng Kỉnh – Thành Tín – Tín Quả, Đồng Phước – Thông Bửu – Viên Khánh, Đồng Trí – Thanh Minh – Bảo Huệ, Đồng Giác – Tịnh Giác, Đồng Viên – Thông Lợi – Viên Đức, Đồng Tâm – Thông Tịnh – Trí Minh, Đồng Đạt – Thông Đạt – Thanh An, Đông An – Thanh Nghiệp – Bảo Lạc, Hòa thượng Thích Đắc Pháp, Ni trưởng Đồng An – Diệu Trí.
Từ đời thứ 11 đến đời thứ 14 hiện đang được truyền thừa, trải dài khắp mọi nơi, cả trong nước lẫn ở nước ngoài. Đời thứ 11 có pháp danh bắt đầu bằng chữ Chúc, pháp tự bắt đầu bằng chữ Giác. Đời thứ 12 có pháp danh bắt đầu bằng chữ Thánh, pháp tự bắt đầu bằng chữ Hoa. Đời thứ 13 có pháp danh bắt đầu bằng chữ Thọ, pháp tự bắt đầu bằng chữ Bồ. Đời thứ 14 có pháp danh bắt đầu bằng chữ Thiên, pháp tự bắt đầu bằng chữ Đề. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp không dùng đầy đủ pháp danh, pháp tự, pháp hiệu, mà chỉ sử dụng pháp danh, như trường hợp Thiền sư Thích Thanh Từ thuộc đời thứ 9 của dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh, là đệ tử của Tổ sư Thích Thiện Hoa (Như Quả – Giải Nhơn – Hoàn Tuyên).
Đặc biệt, đến thế hệ thứ 9 của dòng thiền Chúc Thánh, Thiền sư Thích Thanh Từ không câu nệ vào tông môn pháp phái, nhưng luôn hướng đến tinh thần chung của Thiền tông Việt Nam nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung. Ngài đã thực hiện một việc tương tự như Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo năm xưa. Đó là, Tổ sư Minh Hải thuộc tông Lâm Tế, khai sáng Thiền phái Chúc Thánh; còn Ngài thuộc dòng Chúc Thánh, có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm.
Thiền sư Thích Thanh Từ
Thiền sư Thích Thanh Từ tên thật là Trần Hữu Phước (sau đổi thành Trần Thanh Từ), sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tý (1924) tại Vĩnh Long. Cha là Trần Văn Mão, mẹ là Nguyễn Thị Đủ, xuất gia với Tổ sư Thích Thiện Hoa tại chùa Phật Quang vào năm 1949.
Sau khi thọ giới Sa di (1951), Tỳ kheo (1953), học xong các trường lớp Phật học và làm công tác hoằng pháp trong Giáo hội, tháng 4 năm 1966, Thiền sư Thích Thanh Từ dựng Pháp Lạc thất9 trên núi Tương Kỳ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, mang theo một bộ Đại Tạng Kinh, ấp ủ chí nguyện quyết tu sáng đạo.
Rằm tháng 4 năm Mậu Thân (1968), Ngài phát nguyện nhập thất dài hạn, “nếu đạo không sáng, thề không ra khỏi thất”10. Đến ngày 21 tháng 7 âm lịch, Ngài liễu ngộ lý sắc không, hiểu thông đạo mầu bát nhã và tuyên bố ra thất trong niềm vui của tứ chúng. Ngài bắt đầu mở khóa tu thiền đầu tiên tại Thiền viện Chơn Không từ năm 1971 đến 1974 với 10 thiền sinh.
Năm 1974, Ngài tiếp tục lập khai giảng khóa thiền thứ hai, sau đó lập Thiền viện Thường Chiếu (năm 1974), Thiền viện Viên Chiếu (1975), Thiền viện Huệ Chiếu (1979), Thiền viện Linh Chiếu (1980), Thiền viện Phổ Chiếu (1980), Thiền viện Liễu Đức (1986), Thiền viện Tịch Chiếu (1987),… để mở mang cơ sở hoằng hóa Thiền tông. Trong hai thập niên này, Thiền sư Thích Thanh Từ đặt nền móng cho việc khôi phục Thiền phái Trúc Lâm.
Năm 1993, Ngài đứng ra thành lập Thiền viện Trúc Lâm trên núi Phụng Hoàng, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, làm chỗ chuyên tu cho Tăng Ni, Phật tử, đẩy mạnh việc khôi phục, xiển dương Thiền phái Trúc Lâm. Năm 2002, Ngài trùng tu Chùa Long Động thành Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Những năm sau, Ngài và hàng đệ tử lần lượt lập ra các Thiền viện như: Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên (2004), Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã (2006), Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức (2009) Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác (2012),…
Song song với công cuộc phục hưng Thiền học, Thiền sư Thích Thanh Từ còn sáng tác, biên dịch, giảng giải, nhiều tác phẩm Phật học, kinh luận, sử thiền, hầu hết được hàng đệ tử kết tập trong bộ sách Thanh Từ toàn tập11. Có thể nói, ngọn đuốc Thiền tông nói chung, Thiền phái Trúc Lâm nói riêng, đã được Ngài thắp sáng, bắt đầu từ thập niên 1960, lan tỏa vào thập niên 1970, 1980 và rực sáng vào thập niên 1990 cho đến ngày nay (2020).
Phục hưng Thiền phái Trúc Lâm ở Nam bộ
Thiền phái Trúc Lâm ra đời vào đầu thời Trần (1225-1400) do Tổ sư Trần Nhân Tông khai sáng vào cuối thế kỷ XIII. Trần Nhân Tông và các vị Thiền sư trước đó lẫn các Tổ sư kế thừa đã khẳng định được tính độc lập về tư tưởng và tổ chức của một Thiền phái mang đậm bản sắc văn hóa nước nhà. Một số chủ trương chính trong sự tu tập và hoằng hóa của Thiền phái Trúc Lâm là: lấy phản quan tự kỷ làm tiêu chí tu hành để trực ngộ bản tâm, đối trước ngoại cảnh cần sống vô tâm, không dính mắc, tùy duyên bất biến, chú trọng tính nhập thế một cách tích cực, hộ quốc an dân, thống nhất, dung hòa các hệ tư tưởng trong và ngoài Phật giáo, ổn định tổ chức, đặt trọng tâm vào tinh thần tự lực tự cường, phát huy văn hóa và đạo Phật nước Việt.
Trải qua nhiều thời kỳ biến thiên của lịch sử, Thiền phái Trúc Lâm sau thời Trần dần chìm sâu vào trong nhân gian. Đến thời Hậu Lê, có một số Thiền sư đứng ra phục hưng Thiền phái này như Minh Châu – Hương Hải, Chân Nguyên – Tuệ Đăng, nhưng sau đó lại bị gián đoạn, tới triều Nguyễn thì mất dần dấu tích. Giữa thế kỷ XX, Thiền sư Thích Thanh Từ nhận ra điểm thiếu sót ấy, nên hết lòng khôi phục Thiền tông nói chung, Thiền phái Trúc Lâm nói riêng.
Trong quá trình nghiên cứu Thiền học, Thiền sư Thích Thanh Từ có duyên tìm về các chốn Tổ của nhiều Thiền phái lớn ở nước ta tại miền Bắc và miền Trung. Sự kiện năm 1990, Ngài lên núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh, nơi phát tích dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền mang đậm bản sắc văn hóa nước nhà, đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần dân tộc của Ngài. Đây chính là nguyên nhân thúc đẩy Ngài quyết tâm khôi phục Thiền phái Trúc Lâm đời Trần.
Khởi nguồn từ Thiền viện Chơn Không ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào giữa thập niên 1960, chỉ là một am thất nhỏ bé, dần dà Thiền sư thành lập thêm Thiền viện Thường Chiếu (Đồng Nai) vào đầu thập niên 1970, sau đó là Thiền viện Trúc Lâm (Lâm Đồng) vào đầu thập niên 1990. Y cứ trên tinh thần Thiền học đời Trần, kết hợp giữa việc nghiên cứu giáo điển với sự chuyên tu Thiền định, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại mới, Thiền sư Thích Thanh Từ và các thế hệ kế thừa đã khôi phục, phát huy, xây dựng nhiều cơ sở tự viện, thiền viện để xiển dương tư tưởng Trúc Lâm, như chính Ngài khẳng định:
“Tôi phải dùng Trúc Lâm Yên Tử làm mục tiêu chúng ta nhắm để thực hiện theo tinh thần đó, ứng dụng tu và ứng dụng truyền bá để cho người Việt Nam được tự tín rằng trên đất nước Việt Nam vẫn có những người từng tu theo đạo Phật, từng tu theo Thiền tông, đã chứng ngộ, đã tự tại ra đi và đã thấy được chân lý, tiếp tục truyền nối mãi tới ngày nay không mất”12.
Song song đó, trong quá trình khôi phục và xiển dương Thiền phái Trúc Lâm ở Nam bộ, Thiền sư Thích Thanh Từ luôn nhấn mạnh đến tinh thần dân tộc. Bản thân Ngài và các đệ tử tiến hành dịch giảng hầu hết các ngữ lục của Thiền phái Trúc Lâm và Thiền tông nói chung từ chữ Hán qua chữ Việt, biên soạn các nghi lễ của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần áp dụng vào việc hành trì trong các Thiền viện do Ngài quản lý.
Việc khôi phục dòng Thiền của nước Việt nhận được sự đồng thuận cao của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và các cấp chính quyền, giúp cho Thiền phái Trúc Lâm phát triển mạnh mẽ ở vùng đất Nam Bộ và cả nước. Xuất phát từ khu vực miền Đông Nam Bộ, theo thời gian Thiền phái Trúc Lâm đương đại đã lan rộng ra các tỉnh thành khác. Tính đến đầu thế kỷ XXI, hệ thống Thiền viện Trúc Lâm đương đại đã có mặt ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam của tổ quốc, thậm chí có một số chi nhánh Thiền viện, Thiền tự ở các nước Âu, Mỹ, Úc cũng được thành lập.
Hệ thống tổ chức của Thiền phái Trúc Lâm đương đại
Về hệ thống nhân sự, để tiện việc điều hành các ngôi thiền viện được kiến lập ở trong nước và nước ngoài, Thiền phái Trúc Lâm lập ra một Ban Quản trị gồm: Thiền sư Thích Thanh Từ là Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm, HT. Thích Đắc Pháp và HT. Thích Phước Hảo là Cố vấn (đã viên tịch năm 2013), HT. Thích Nhật Quang là Trưởng ban, TT. Thích Thông Phương là Phó Ban Thường trực, các vị trụ trì các thiền viện là ủy viên. Thiền phái lấy ngày mùng 7 và mùng 8 tháng 12 âm lịch hằng năm làm ngày họp thường niên của Ban Quản trị, cũng là dịp để các Tăng Ni, Phật tử ở trong nước và nước ngoài về đảnh lễ Thiền sư Thích Thanh Từ. Đối với việc sắp xếp nhân sự trong nội bộ thiền viện, Trúc Lâm Thanh quy đưa ra hệ thống phân công tổ chức rõ ràng, bao gồm hai ban lớn: Ban lãnh đạo và Ban chức sự, bên dưới có các tiểu ban trực thuộc.
Đối với việc đặt pháp danh cho thế hệ đệ tử kế thừa, Thiền sư Thích Thanh Từ không chủ trương đặt pháp danh theo dòng kệ, mà chỉ đặt tên theo từng giai đoạn như: Đắc Pháp, Đắc Giác, Đắc Huyền, Thông Phương, Thông Hạnh, Thông Nhẫn, Thông Thiền, Trúc Thông Phổ, Trúc Thông Kiên, Trúc Thông Tánh, Trúc Thái Bảo, Trúc Thái Bình, Trúc Thái An,… Về phía chư Ni, Ngài có các đệ tử kế thừa như: Như Đức, Như Thủy, Như Tâm, Hạnh Huệ, Hạnh Nhã, Hạnh Chiếu, Hạnh Đoan,…
Mỗi công trình kiến trúc thiền viện thuộc Thiền phái Trúc Lâm đều hướng đến các yếu tố: Cấu trúc cơ sở hài hòa, dễ nhận ra phần chính, phần phụ, chủ đề, nội dung trong cơ sở đó, đời sống tu học sinh hoạt của thiền tăng đạt được tính hài hòa, bình yên13. Mô hình tổ chức thiền viện thường được bố cục theo lối nhẹ nhàng, hoa văn đơn giản, gồm hai khu lớn: nội viện và ngoại viện, có nơi thêm khu tịnh thất của Hòa thượng Viện chủ, có nơi phân chia riêng khu chư Tăng và chư Ni. Khu ngoại viện gồm có các công trình chính như: cổng tam quan, chánh điện, tổ đường, khách đường, giảng đường, thiền viện,… Nội viện gồm có bốn công trình chính: thiền đường, tăng đường, trai đường và nhà trù cùng khu thiền thất.
Với hệ thống kiến trúc này, có thể nói ngày nay các thiền viện thuộc hệ thống Thiền phái Trúc Lâm không chỉ là nơi tôn thờ các thánh tượng, phục vụ nhu cầu tu học của Tăng Ni, tín ngưỡng của Phật tử, nhằm hoằng dương Phật pháp, mà còn trở thành những thắng cảnh nhân tạo, môi trường trong lành xanh mát, góp phần làm phong phú hơn cho di sản kiến trúc Phật giáo nước nhà trong thời kỳ hội nhập.
Vì nhu cầu tu học của Tăng Ni và Phật tử ngày càng tăng, Thiền sư Thích Thanh Từ cùng các đệ tử trong thiền phái tiếp tục thành lập thêm hơn 60 thiền viện Tăng, hơn 30 thiền viện Ni ở trong nước và ở nước ngoài. Đồng thời, Thiền phái Trúc Lâm liên tục thực hiện công cuộc đào tạo nhân sự, mở các khóa tu thiền, thành lập hàng trăm đạo tràng tu tập sinh hoạt định kỳ trải dài khắp cả nước để những ai muốn tìm hiểu và thực hành pháp môn Thiền Trúc Lâm có thể nương về tu học.
Phương pháp tu tập của Thiền phái Trúc Lâm đương đại
Năm 1971, Thiền sư Thích Thanh Từ mở khóa tu Thiền đầu tiên ở Thiền viện Chơn Không, đến nay Ngài vẫn giữ nguyên hai mục tiêu quan trọng trong phương pháp giáo dục mà thiền phái hướng đến: thiền giáo song tu, kết hợp học tập và thực hành, xem trọng thực tu thực học, không chú trọng văn bằng học thuật. Trúc Lâm thanh quy ghi khá rõ các điều kiện cụ thể trong việc tuyển chọn người đến thiền viện tu tập như: độ tuổi, trình độ, sức khỏe, tinh thần tu học.
Kỷ luật của thiền viện cũng được quy định chặt chẽ. Thời khóa tu tập và sinh hoạt ở các thiền viện xác lập trên cơ sở bản thanh quy và thời khóa biểu, áp dụng từ thời thành lập Thiền viện Chơn Không (1966), đến Thiền viện Thường Chiếu (1974) và Thiền viện Trúc Lâm (1993). Cụ thể mỗi ngày như sau:
Buổi sáng: 03 giờ 30: ba hồi ba tiếng chuông báo thức, hô chuông tọa thiền, 05 giờ 30: một hồi chuông xả thiền, 06 giờ 15: ba tiếng bảng tiểu thực, 07 giờ 30: ba tiếng kẻng công tác, 11 giờ: một hồi kẻng xả công tác, 12 giờ: ba tiếng bảng thọ trai.
Buổi chiều: 01 giờ: ba tiếng chuông nghỉ, 02 giờ: một hồi ba tiếng chuông thức, 02 giờ 30: ba tiếng chuông tọa thiền, 04 giờ 30: một hồi chuông xả thiền, 05 giờ: ba tiếng bảng tiểu thực, 06 giờ: sám hối sáu căn, 07 giờ 30: ba tiếng chuông, hô chuông tọa thiền, 09 giờ: một hồi chuông xả thiền, 09 giờ 30: ba tiếng chuông nghỉ.
Mỗi tháng: thỉnh nguyện: ngày 13 và 28 vào lúc 02 giờ 30 chiều, tham vấn: ngày 14 và 29 vào lúc 08 giờ sáng.
Phương pháp thực hành của Thiền phái Trúc Lâm đương đại trải qua bốn giai đoạn thực tập từ thấp đến cao là: sổ tức, tùy tức, tri vọng, biết có chân tâm.
Sổ tức (đếm hơi thở) và tùy tức (theo dõi hơi thở) là những phương pháp căn bản để nhiếp tâm trong quá trình tọa thiền. Theo Thiền sư Thích Thanh Từ: “Người sơ cơ mới bước vào đạo, muốn tu thiền mà chưa biết gì hết, chúng tôi dạy họ tu phương pháp Sổ tức quán… Thời gian sau thuần thục, chỉ nhớ hơi thở và nhớ số thôi, không nhớ chuyện thế gian nữa… Nhớ như vậy tới bao giờ ngồi nửa tiếng đồng hồ chỉ nhớ hơi thở, không bao giờ quên thì đó là thành công chặng thứ hai. Hai chặng đó là hai chặng dành cho người sơ cơ”14. Trong các tác phẩm do Ngài trước tác như: Phương pháp tọa thiền, Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX,… cũng đều có phần hướng dẫn khá chi tiết, thậm chí có hình ảnh minh họa về tư thế tọa thiền, cách thực hành đếm hơi thở và theo dõi hơi thở.
Tiếp theo là pháp tu Tri vọng (biết vọng tưởng, không chạy theo). Pháp tu này được Thiền sư Thích Thanh Từ hướng dẫn từ khi mở khóa tu Thiền đầu tiên ở Thiền viện Chơn Không vào thập niên 1970. Khi hành giả đã định tâm, biết rõ hơi thở vào ra không loạn động, thì bước tiếp theo là sống với tâm định tĩnh đó. Hễ lúc nào thấy tâm mình có niệm khởi, suy nghĩ lăng xăng, thì biết rõ có niệm khởi, có suy nghĩ lăng xăng, mà không chạy theo, không bị cuốn vào nó và buông xả. Thậm chí, lúc tâm mình được định tĩnh, không suy nghĩ một điều gì, thì cũng biết rõ ràng là tâm mình đang định tĩnh, không có niệm khởi, mà vẫn sáng suốt, an lạc. Ngài khẳng định: “Khi thấy biết vọng tưởng, vọng tưởng lặng. Cái biết đó là Trí tuệ. Vì khi mê, cho vọng tưởng là tâm mình nên bị nó dẫn chạy ngược chạy xuôi rồi phiền não khổ đau. Bây giờ, biết bản chất của nó là không thật là vọng tưởng nên không chạy theo nó nữa. Không theo nó thì tham, sân, si dừng; tham, sân, si dừng thì hết phiền não khổ đau”15.
Bước thứ tư là sự nhận biết Phật tánh, tức chân tâm thanh tịnh và sống với nó trong từng phút giây. Giai đoạn này thích hợp với những người chuyên tu, là giới Tăng Ni, Phật tử thuần thành muốn tu tập đạt đến giác ngộ, giải thoát. Trong tác phẩm Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, Thiền sư Thích Thanh Từ chỉ ra trình tự tu tập áp dụng trong hệ thống Thiền viện Trúc Lâm là16:
1. Biết vọng không theo, vì vọng tưởng là những tâm niệm hư ảo;
2. Đối cảnh không tâm, vì nó là tướng duyên hợp giả dối tạm bợ;
3. Không kẹt hai bên, vì đối đãi là không thật; 4. Hằng sống với cái chân thật, không theo cái giả, vì giả là luân hồi, thật là giải thoát. Theo Ngài, cốt lõi của sự tu hành là phải sống được với chân tâm thanh tịnh ấy hằng giờ hằng phút, an nhiên tự tại, đó là giải thoát hiện tiền.
Thiền sư Thích Thanh Từ đã đề ra phương pháp tu tập phù hợp với căn cơ Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong thời đại mới. Những cách thực tập mà Ngài và hàng đệ tử hướng dẫn, giúp con người trở về soi sáng lại chính mình để sống trong an lạc, tỉnh thức, chứ không phải tìm cầu bình an ở một phương trời viễn mộng xa vời. Đúng như chủ trương của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (quay về soi sáng lại chính mình, là việc làm bổn phận, không phải tìm cầu từ nơi khác mà được)17. Lần lượt các bước thực hành: đếm hơi thở, theo dõi hơi thở, biết vọng tưởng không chạy theo, nhận ra và sống với chân tâm thanh tịnh, làm cho người tu tập buông bỏ được phiền não, giảm thiểu lo âu, tâm bình thản, sáng suốt, cảm nhận niềm vui và giá trị của việc hành thiền.
Như vậy, trong số các bậc tôn túc xuất thân từ cội nguồn dòng thiền Chúc Thánh, có Thiền sư Thích Thanh Từ là bậc cao Tăng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại. Công đức lớn nhất của Ngài là khôi phục Thiền phái Trúc Lâm, phát huy tinh thần dân tộc, kế thừa tinh hoa Phật giáo đời Trần, nhấn mạnh thiền giáo đồng hành, chú trọng vào việc tu tập giải thoát. Điểm này rất gần với những chủ trương của Thiền phái Chúc Thánh: lấy giới luật, hạnh giải tương ưng làm nền tảng cho sự giác ngộ chân như, mục đích đạt đến giải thoát, từ đó nhập thế, hộ trì quốc gia vững bền, nhân dân no ấm.
Thiền phái Chúc Thánh khởi nguồn từ Tổ sư Minh Hải – Pháp Bảo vào cuối thế kỷ XVII ở Hội An, Quảng Nam, phát triển mạnh mẽ ở Tổ đình Chúc Thánh và lan truyền rộng ra khu vực miền Trung cũng như cả trong và ngoài nước, “các thế hệ Tăng nhân của dòng thiền Chúc Thánh đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đạo pháp và dân tộc. Dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh là một trong những thiền phái lớn của Phật giáo Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại”18. Kế thừa Thiền phái này có nhiều bậc là Tổ sư, Thiền sư khai sơn các ngôi Tổ đình lớn ở nước ta, mà ngày nay có hàng triệu người đang hướng về tu học.
Nếu miền Trung là khởi điểm của Thiền phái Chúc Thánh năm xưa, thì miền Nam là nơi phục hưng Thiền phái Trúc Lâm đương đại. Các ngôi Thiền viện Chơn Không, Thường Chiếu, Trúc Lâm lần lượt được thành lập ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Lâm Đồng, làm cơ sở cho công cuộc truyền bá Thiền tông của Thiền sư Thích Thanh Từ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XX. Ngày nay, đã có hàng trăm ngôi thiền viện ở trong và ngoài nước được kiến lập, giúp cho hàng hàng ngàn Tăng Ni, hàng vạn Phật tử tu Thiền có kết quả tốt đẹp.
Từ Chúc Thánh đến Trúc Lâm, chúng ta thấy, cả hai vị Tổ sư, Thiền sư đều có những đóng góp lớn lao cho Phật giáo Việt Nam xưa và nay. Các ngài đặt nền tảng cho sự ra đời của một Thiền phái mới trên tinh thần kế thừa Thiền phái gốc và sự phục hưng của một Thiền phái vốn là niềm tự hào dân tộc Đại Việt. Trang sử Phật giáo Việt Nam và Thiền tông Việt Nam sẽ còn ghi khắc mãi công hạnh của Tổ sư Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo và Thiền sư Thích Thanh Từ đối với đạo pháp và cuộc đời.
ĐĐ. NCS. THÍCH TUỆ NHẬT
_Chú thích:
1. Tiêu biểu cho các vị cao Tăng đầu tiên người Trung Quốc qua Việt Nam truyền đạo ở Đàng Trong thế kỷ XVII có Thiền sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch (1648-1728) thuộc tông Lâm Tế và Thiền sư Thạch Liêm – Thích Đại Sán (1633-1704) thuộc tông Tào Động.
2. Thiền phái Trúc Lâm hay còn gọi là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần do Tổ sư Trần Nhân Tông (1258-1308) khai sáng vào cuối thế kỷ XIII. Các vị Tổ sư kế thừa là Thiền sư Pháp Loa (1284-1330) và Thiền sư Huyền Quang (1254-1334).
3. Tam huyền gồm: 1) Thể trung huyền: câu nói phải chất phác, ngay thật, không trau chuốt; 2) Cú trung huyền: lời nói không mắc kẹt tình thức phân biệt; 3) Huyền trung huyền: câu nói lìa đối đãi hai bên. Tam huyền có ý nghĩa kích thích hành giả tham thiền phát khởi nghi tình. Xem: Hân Mẫn, Thông Thiền (2019), Từ điển Thiền tông tân biên, tập 2, NXB Hồng Đức, Hà Nội, trang 1154.
4. Tam yếu gồm: 1) Trong lời nói không có phân biệt tạo tác; 2) Ngàn thánh vào thẳng chỗ huyền áo; 3) Đường ngôn ngữ dứt. Tam yếu là ba điều trọng yếu ẩn chứa trong tam huyền. Xem: Hân Mẫn, Thông Thiền (2019), Từ điển Thiền tông tân biên, tập 2. Sđd, trang 1162.
5. Tứ liệu giản là bốn cách phán định hay bốn biện pháp do Thiền sư
Lâm Tế Nghĩa Huyền lập ra để tiếp dẫn người học khi đã nắm được trình độ lãnh ngộ tự tánh của họ, gồm: 1) Đoạt nhân bất đoạt cảnh: dẹp tâm mà không dẹp cảnh; 2) Đoạt cảnh bất đoạt nhân: dẹp cảnh mà không dẹp tâm; 3) Nhân cảnh câu đoạt: tâm cảnh đều dẹp; 4) Nhân cảnh câu bất đoạt: tâm cảnh đều không dẹp. Xem: Hân Mẫn, Thông Thiền (2019), Từ điển Thiền tông tân biên, tập 2, sđd, trang 1509-1510.
6. Thích Như Tịnh biên soạn (2009), Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, Nxb Phương Đông, trang 126-130.
7. Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, sđd, trang 128-129.
8. Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, sđd, trang 126.
9. Pháp Lạc thất: nay là Thiền viện Chơn Không, phường 1, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
10. Ban Văn hóa Thường Chiếu (2002), Thanh Từ toàn tập, tập 1, NXB Tôn giáo, Hà Nội, trang bìa lót.
11. Hiện nay (2020) có 2 bộ Thanh Từ toàn tập, một bộ đã xuất bản đầy đủ vào năm 2002 với 31 tập, một bộ đang tiến hành biên tập lại, dự kiến gồm 50 tập, đã xuất bản được hơn 30 tập, sẽ hoàn thiện trong tương lai gần.
12. Thích Thanh Từ (2000), Nền tảng của đạo Phật trọn một đời tôi, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, trang 75-76.
13. Chí Nhân (2014) “Thiền viện Thường Chiếu: Kiến trúc Phật giáo Thiền tông cuối thế kỷ XX”, Kỷ yếu 40 năm Thiền viện Thường Chiếu, NXB Văn hóa Văn nghệ, TPHCM, trang 69.
14. Thích Thanh Từ (2001), Hoa vô ưu, tập 3, NXB Tôn giáo, Hà Nội, trang 35-36.
15. Thích Thanh Từ (2002), Trên con đường Thiền tông, NXB Tôn giáo, Hà Nội, trang 20.
16. Thích Thanh Từ (2014), Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, trang 71-72.
17. “Phản quan tự kỷ” là một trong những chủ trương chính của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, bắt nguồn từ cuộc đối đáp giữa Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ về yếu chỉ cốt lõi của Thiền tông, Thượng Sĩ đã chỉ dạy: “phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Nhờ câu nói này, Trần Nhân Tông giác ngộ, thấy rõ đường vào đạo.
18. Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, sđd, trang 19.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Thích Hải Ấn & Hà Xuân Liêm (2006), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, NXB Văn hóa Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
- Thích Đồng Bổn chủ biên (2014), Phật giáo thời Hậu Lê, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
- Ban Văn hóa Thường Chiếu (2002), Thanh Từ toàn tập, tập 1, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
- Thích Đạt Ma Quán Hiền (2013), Thiền tông Việt Nam trên đường phục hưng & hoằng hóa, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
- Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
- Hân Mẫn, Thông Thiền (2019), Từ điển Thiền tông tân biên, tập 2, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
- Chí Nhân (2014) “Thiền viện Thường Chiếu: Kiến trúc Phật giáo Thiền tông cuối thế kỷ XX”, Kỷ yếu 40 năm Thiền viện Thường Chiếu, NXB Văn hóa Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
- Thích Tuệ Nhật (2017), Thiền phái Trúc Lâm thời hiện đại, Luận văn Thạc sĩ Phật học, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.
- Thích Như Tịnh biên soạn (2009), Lịch sử Truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, NXB Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.
- Thích Thanh Từ (2003), Ba vấn đề trọng đại trong đời tu của tôi, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
- Thích Thanh Từ (2001), Hoa vô ưu, tập 3, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
- Thích Thanh Từ (2000), Nền tảng của đạo Phật trọn một đời tôi, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
- Thích Thanh Từ (2014), Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
- Thích Thanh Từ (2002), Trên con đường Thiền tông, NXB Tôn giáo, Hà Nội.