Kiến trúc Chùa Tháp Phật giáo Việt Nam trong dòng chảy lịch sử (TT.TS Thích Phước Đạt)

TẢI FILE PDF
———————-

          1. Tổng quan

          Phật giáo truyền vào nước ta từ đầu thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và sớm thể nhập vào đời sống văn hóa tâm linh người Việt trên 2500 năm. Có thể nói Phật giáo Việt Nam đã đồng hành cùng dân tộc Việt trong quá trình dựng nước, giữ nước và mở nước. Ngôi chùa chính là biểu tượng không thể tách rời đời sống sinh hoạt văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

          Xuất phát từ nền tảng văn hóa làng xã của cộng đồng người Việt, trong quá trình hình thành và phát triển đất nước của từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử, mỗi ngôi chùa tại làng xã được tạo dựng có những nét kiến trúc, mỹ thuật riêng và cũng rất gần gũi, gắn bó với người dân để đáp ứng nhu cầu của thời đại đặt ra. Ngôi chùa không chỉ đã trở thành một trong những biểu tượng văn hóa làng xã mà còn trở thành biểu tượng của đất nước độc lập tự chủ, phục hưng mọi giá trị văn hóa Việt kể từ khi chấm dứt 1000 năm phong kiến phương Bắc sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử.

          Hiện tại cả nước có 17.000 ngôi chùa, phục vụ cho nhu cầu tu tập cho Tăng Ni và Phật tử và tín ngưỡng, kể cả chiêm bái, thưởng ngoạn. Tất cả minh chứng quá trình tiếp biến và hội nhập văn hóa Phật giáo vào đời sống, nhất là ở lĩnh vực kiến trúc thì ngôi chùa là mẫu hình kiến trúc Phật giáo tiêu biểu hết sức kỳ đặc, tiêu biểu, phong phú và đa dạng. Mỗi ngôi chùa Việt Nam là một tác phẩm kiến trúc mỹ thuật riêng biệt mà không thể lẫn lộn kiến trúc chùa tháp nước nào khác trong lịch sử hình thành và phát triển các công trình văn hóa Phật giáo nói riêng, văn hóa kiến trúc Việt Nam nói chung.

          2. Nguồn gốc, chức năng, tên gọi các ngôi chùa tháp

          Đạo Phật khởi nguyên từ Ấn Độ do đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập vào thế kỷ thứ VI trước CN, sau đó được truyền sang các nước phương Đông như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản,… Đời sống sinh hoạt Tăng già ngay từ thời đức Phật đã hình thành nên những tinh xá đầu tiên (ngôi chùa) để chư tăng trú ngụ nhằm đáp ứng nhu cầu tu tập, an trú, thuyết pháp độ sinh. Theo các bản kinh Nikaya mô tả thì có hai tinh xá thành lập sớm nhất là tinh xá Trúc Lâm do vua Tần Bà Sa La tạo lập và tinh xá Kỳ Hoàn hay còn gọi là Kỳ Viên do trưởng giả Cấp Cô Độc tạo dựng để cúng dường. Như vậy, tinh xá (Vihara) có thể hiểu là nơi chư tăng, tăng đoàn Phật giáo Ấn Độ thời Phật còn tại thế. Có thể xem đây là kiểu kiến trúc ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Ấn Độ dành cho đức Phật và các thánh đệ tử của Ngài trú ngụ, thực hành, trao đổi Phật pháp hay thuyết giảng cho Phật tử.

          Sau khi đức Phật nhập Niết bàn, quá trình truyền bá đạo Phật diễn ra tại mỗi quốc gia nào thì kiến trúc các công trình dành cho chư Tăng trú xứ, hành đạo sẽ được tiếp biến và hội nhập theo nền tảng văn hóa kiến trúc nước đó. Các công kiến trúc này không chỉ là nơi trú xứ của chư Tăng mà còn có thêm chức năng thờ phụng đức Phật, Bồ tát, thánh thần, các Tổ sư khai sáng tông phái, tông môn và cả vị thầy Bổn sư của mình viên tịch. Sự truyền bá Chánh pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương khác nhau làm cho kiến trúc tinh xá (Vihara) khởi thủy ban đầu khi Phật còn tại thế thay đổi dần dần phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, hoằng pháp để đáp ứng nhu cầu thời đại đặt ra.

          Do đó, tên gọi về các công trình kiến trúc Phật giáo cũng thay đổi khi được kiến tạo tại mỗi quốc gia khác nhau tùy thuộc vào chức năng hoằng hóa phù hợp tôn chỉ đường lối của mỗi tông môn hệ phái, tổ chức giáo hội, giáo phái. Hầu hết các ngôi chùa Nam tông ở Thái Lan gọi là “Whihan”, Miến Điện gọi là “Wihara”, Campuchia gọi là “Vihear”, ở Trung Quốc đều được gọi là “Tự” (寺). Riêng ở Việt Nam thì về tên gọi các ngôi chùa thì phong phú với ý nghĩa là cơ sở thờ tự và tu hành của chư tăng ni, Phật tử như: chùa tháp, chùa chiền, tự viện, già lam, thiền viện, tu viện, tịnh viện, tịnh xá, tịnh thất, Niệm Phật đường. Thậm chí ngôi chùa là nơi phát sinh chốn Tổ được gọi là Tổ đình; có chùa được gọi là Quốc tự là do vua đứng ra xây dựng biểu trưng cho đời sống văn hóa tâm linh Quốc thể. Sở dĩ như vậy là do Phật giáo Việt Nam có nhiều truyền thống tu tập và tông môn hệ phái, cho nên có tên gọi khác nhau, tùy thuộc vào chức năng và mục đích của từng ngôi chùa. Dù mang tên gọi khác nhau, thì trong tâm khảm người dân vẫn hiểu và gọi với cái tên quen thuộc là “chùa” hay “chùa chiền”.

          Theo các nhà nghiên cứu thì danh từ “chùa” là tên gọi chỉ nơi thờ Phật và chư tăng ni tu học mà nguồn gốc của nó là bắt nguồn từ “thùpa” của tiếng Pali hay “stùpa” của tiếng Sanskrit của Ấn Độ. Kiến trúc ban đầu của chùa Việt Nam vào thời Phật giáo du nhập có dạng hình tháp do ảnh hưởng từ các nhà sư truyền bá đạo Phật từ Ấn Độ. Theo các nhà ngôn ngữ thì từ “thùpa” hay “stùpa” là từ đa âm tiết, tiếng Việt là tiếng đơn âm, người dân thu lại thành “thu” hay “stu”, từ đó trở thành “chùa”.

          Minh chứng cho ý kiến này, trong thư tịch cổ văn học Phật giáo thời thì Lý – Trần, còn bảo lưu tác phẩm Cư trần lạc đạo phú12 của Trần Nhân Tông vào thế kỷ XIII, đã dùng từ “chiền” trong từ đôi “chùa chiền” của tiếng Việt cổ để nói đến vấn đề kiến thiết quốc gia bằng cách xây dựng chùa chiền biểu trưng cho nền văn hóa Đại Việt ở hội thứ 8 qua câu: “Dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại tướng trang nghiêm, sự tướng hãy tu”; Còn ở hội thứ 10 thì: “Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao; Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí”, ý nói chùa chiền là nơi thanh tịnh cho các vị tu hành, là am thanh vắng tu tập thiền định, nơi tiêu dao của đạo nhân (Đạo giáo) và dật sĩ (Nho giáo). Nguyễn Trãi vào thế kỷ XIV trong Quốc âm thi tập mô tả là “cảnh ở tự chiền”. Trong tiếng Việt cổ, từ “chiền”, nghĩa là chùa chiền. Từ “chiền” có gốc từ “cetiya”, “cetiyan” trong tiếng Pali, từ “caitya” trong tiếng Sanskrít.

          Như đã nói quá trình truyền bá đạo Phật vào Việt Nam đã hình thành nên các ngôi chùa, nhất là kể từ khi Luy Lâu trở thành trung tâm Phật học và tín ngưỡng châu Á vào thời Phật giáo du nhập nước ta. Các ngôi chùa theo đó mà được kiến tạo lớn nhỏ khác nhau ở mỗi làng, mỗi xã với mô hình “Đất vua – Chùa làng – Phong cảnh Bụt”. Qua 2500 năm lịch sử, hệ thống chùa chiền Việt Nam đã hình thành và phát triển với nhiều kiểu kiến trúc chùa cũng như Phật điện ở bên trong và các công trình chức năng như nhà Tổ, nhà Phương trượng, nhà chúng, nhà giảng, nhà thư viện, nhà trù…

          3. Các mô hình kiến trúc và mỹ thuật chùa tháp Phật giáo Việt Nam

          3.1 Kiến trúc chùa tháp thời Phật giáo du nhập và phát triển

          Đời sống sinh hoạt Phật giáo Việt Nam từ những kỷ nguyên đầu SCN đã thực sự đã định hình và bước đầu phát triển. Trong Lý hoặc luận, Mâu Tử mô tả các nhà sư tại nước ta tu học, giải quyết về những vấn nạn, thành kiến sai lầm của nhà Nho, Lão đối với Phật giáo mà không mô tả gì về một ngôi chùa nào cả.

          Theo Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh thì những ngôi chùa đầu tiên của nước ta ở vùng Dâu, khó có thể hình dung ra kiến trúc của các ngôi chùa ấy có đặc trưng kiểu gì, có thể là thảo am bằng tre, lợp tranh hoặc là những ngôi đền thờ các vị thần truyền thống do (tín ngưỡng đa thần). Trong sách này đã đề cập đến nhà sư Khâu Đà la, dân gian gọi là ông thầy Đen, có quan hệ với cô gái Man Nương và cô này đã có thai khi ông vô tình bước qua mình. Khi đứa bé chào đời được Khâu Đà La đưa vào thân cây đa. Cây đa về sau bị đổ và trôi xuống sông. Dân làng vớt cây lấy gỗ tạc thành tượng nữ thần Pháp vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện để thờ.

          Chùa được xây dựng vào thế kỷ III sau CN. Ngôi chùa này là nơi dừng chân của các nhà sư Ấn Độ. Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến chùa này vào thế kỷ VI và lập nên dòng thiền mang tên Ngài. Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật mẫu Man nương và hệ thống Phật Tứ pháp. Vào thời Trần Anh Tông trị vì, vua đã chỉ thị cho Mạc Đĩnh Chi kiến thiết lại chùa Dâu. Kiến trúc chùa theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính. Chùa Dâu là nơi lưu giữ những giá trị mỹ thuật điêu khắc tượng được phụng thờ. Bảo tháp Hòa Phong được xây bằng chất liệu gạch nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời xa xưa.

          Những ngôi chùa đầu tiên ở nước ta là những ngôi đền thờ thần thuộc tín ngưỡng bản địa, rồi thỉnh Phật vào thờ. Người dân Việt thờ thần trước rồi thờ Phật sau. Sáu thế kỷ đầu SCN, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ. Sau Mâu Tử, sư Khương Tăng Hội đã tổ chức dạy thiền cho 200 – 300 thiền sinh. Theo Thích Nhất Hạnh có thể là ở chùa Diên Ứng, còn gọi là chùa Dâu – Bắc Ninh.

          Có lẽ mô hình kiến trúc chùa tháp bấy giờ có thể mô phỏng kiến trúc kết hợp giữa tinh xá (vìhàra) và Phật điện (caitaya). Theo các nhà khảo cổ học thì bình đồ kiến trúc chùa có thể là hình vuông, cũng có thể là những hình tháp (stupa) có nguồn gốc từ Ấn Độ. Những kiến trúc này còn tồn tại đến những giai đoạn sau.

          Phật giáo Việt Nam tuy ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ, tuy nhiên Giao Châu còn có các nhà sư Trung Quốc sang Việt Nam ngày càng nhiều, tất nhiên cũng để lại dấu ấn Phật giáo Trung Quốc. Sự kiện thứ nhất là thông qua nội dung 6 bức thư Lý Miễu quan thứ sử gởi cho 2 nhà sư Việt Nam là Đạo Cao và Pháp Minh vào thế kỷ thứ V, được Tăng Hựu ghi trong sách Hoằng Minh tập thảo luận về vấn đề đức Phật có hiện hữu ở đời hay không. Sự kiện thứ hai mà sử sách chép lại là việc sư Đàm Hoằng người Trung Quốc đến chùa Tiên Sơn núi Tiên Du Bắc Ninh vào năm 455, trước lúc viên tịch đã dặn học trò sau khi hỏa táng và thấy rồng bay về hướng Tây. Cả hai sự kiện này không đề cập đến kiến trúc ban đầu chùa này như thế nào?

          Ngôi chùa được người dân Việt quan tâm và có ý nghĩa nhất là ngôi chùa Khai Quốc được kiến tạo bởi ông vua Lý Bí (541- 547), và nó đã tồn tại cho đến ngày nay với tên gọi là chùa Trấn Quốc (Hà Nội). Từ cột mốc này về sau, Phật giáo Việt Nam đã phát triển. Chùa tháp lần lượt được xây dựng không chỉ ở Luy Lâu, Đại La mà còn lan tỏa về các vùng đất phía Nam đáp ứng nhu cầu tu học của người dân Việt bấy giờ.

          Theo sách Thiền Uyển tập anh thì Tỳ Ni Đa Lưu Chi được mời làm Trú trì chùa Pháp Vân. Đệ tử đắc pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi là Pháp Hiền đã khai sơn chùa Chúng Thiện ở núi Thiên Phúc huyện Tiên Du và dạy thiền cho hội chúng trên 200 thiền sinh. Kiến trúc chùa có lẽ quy mô và rộng mới đáp ứng nhu cầu tu học. Cũng theo Thiền Uyển Tập Anh, Quốc sư Thông Biện (thời nhà Lý), đã từng nhắc tới Pháp sư Đàm Thiên nói về Phật giáo Giao Châu: “Một phương Giao châu, đường thông Thiên trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy. Vào lúc ấy, thì đã có Khâu Đà La, Ma La Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó…”13.

          Các nghiên cứu về chùa tháp ngày nay chỉ ra rằng có kiểu kiến trúc chùa tháp, tiêu biểu là tháp Nhạn ở thôn Nhạn Tháp, xã Hồng Long, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An với kiến trúc xây dựng bằng chất liệu gạch, ngói, có hình trang trí voi và sư tử, mỗi viên gạch còn có phù điêu ba vị Phật ngồi trên tòa sen, trên đầu còn có vòng hào quang, tay bắt ấn thiền định như là dấu mỹ thuật Phật giáo thời đó. Khi khai quật tháp chỉ còn chỉ thấy phần chân tháp giống hình vuông 9.6 m x 9 m, xung quanh chân tháp là sân lát gạch gần vuông, chiều Bắc – Nam dài 14,2m, chiều Đông – Tây dài 14m. Trong lòng tháp, tìm thấy có một hộp đồng khối chữ nhật dài 12cm, rộng 8cm, cao 5c, có trang trí những bông hoa. Bên trong hộp có tro, có những mảnh hạt gao cháy, và hai viên tròn màu trắng và giới nghiên cứu cho là xá lợi…

          Đến thế kỷ thứ IX, thiền phái Vô Ngôn Thông được thành lập tại Giao Châu. Ngôi chùa này hiện ở xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Thiền phái này truyền thừa 17 thế hệ, và kiến tạo ra nhiều ngôi chùa. Từ đây, Phật giáo nước ta bắt đầu có sự ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Phật giáo.

          3.2. Kiến trúc và mỹ thuật chùa tháp thời Phật giáo Lý – Trần

          Đất nước độc lập tự chủ, các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần đều dựa vào Phật giáo để xây dựng và phát triển quốc gia Đại Việt. Bên cạnh Hoa Lư là kinh đô nhà Đinh với hệ thống kiến trúc tòa thành được thiết kế trong thung lũng bao bọc bởi đá vôi, là những kiến trúc chùa tháp.

          Căn cứ vào sách Thiền uyển tập anh thì một số chùa được các tổ sư khai sơn như chùa Đại Vân, chùa Vạn Tuế cùng với một số chùa khác. Tác giả sách Kiến trúc Phật giáo Việt Nam14 cũng có đề cập vua Tiền Lê cho dựng một ngọn tháp tại kinh đô Hoa Lư là chùa Vạn Tuế. Ta có thể kể đến chùa Tháp là ngôi chùa chỉ còn thấy dấu vết nền cũ ở ven sông Hoàng Long. Trong số đá tảng chân cột, có viên hình vuông cạnh dài đến 1,06m và vòng tròn kê cột có đường kính 0,68 m. Chứng tỏ kiến trúc chùa này là rất quy mô và to lớn. Chùa Bà Ngô cũng được kiến tạo từ thời nhà Đinh, bài văn bia của chùa còn ghi: “Chùa Bà Nô trong ấp ta là một danh lam ở Đô cũ nước Cồ Việt”. Từ lời bia này, mà ta có thể là chùa mang tên nữ thần minh chứng quá trình tiếp biến của Phật giáo với tín ngưỡng dân gian thờ nữ thần nông nghiệp.

          Công cuộc nghiên cứu của giới khảo cổ học đã minh chứng có hình thức kiến trúc các cột đá khắc kinh tìm thấy được kiến tạo vào những thời điểm khác nhau và có khắc bài chú Phật đỉnh tôn thắng đà la ni, được dựng xung quanh các chùa tháp ở Hoa Lư, nội dung được khắc trên các cột đá gần với bản dịch của nhà sư Bất Không (704 – 714) một vị tổ của mật tông Trung Quốc đã tìm thấy ở Đôn Hoàng.

          Dòng thiền Vô Ngôn Thông ra đời vào thế kỷ IX và Thảo Đường ra đời vào thế kỷ XI cũng là cơ sở để Phật giáo phát triển hệ thống chùa chiền qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Sự kiện Ngô Chân Lưu được phong làm Tăng thống, khai sáng ra chùa Khai Quốc ở Đại La (Thăng Long) và ngôi chùa này mang vị thế của quốc gia với kiến trúc nguy nga hoành tráng và trở thành trung tâm đào tạo tăng tài cả nước.

          Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, chính sử ghi nhiều ngôi chùa đã được triều đình xây dựng. Ngay trong đời vua Lý Thái Tổ đã có khoảng 300 ngôi chùa được dựng trên cả nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư15 có ghi vào năm 1010 Lý Thái Tổ đã xây thêm chùa Hồng Phúc trong thành, chùa Thăng Nghiêm ở ngoài thành. Năm 1011, vua xây dựng chùa Vạn Tuế, Tứ Đại Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ. Năm 1012 vua xây chùa Thiên Quang, Thiên Đức, đến năm 1024 thì xây chùa Chân Giáo. Số lượng chùa được xây trong đời Lý Thái Tông không nhiều so với Lý Thái Tổ, vào năm 1041, xây chùa Từ Thị Thiên Phúc ở núi Tiên Du, năm 1049, dựng chùa Diên Hựu (Một Cột) như là một biểu tượng văn hóa Phật giáo nhà Lý.

          Thời Lý Thánh Tông, sử chép vua xây chùa Sùng Khánh Báo Thiên, chùa Thiên Phúc, Thiên Đức và tháp Đại Thắng Tư Thiên ở chùa Sùng Khánh Báo Thiên vào năm 1056 – 1057. Một năm sau vua xây tháp Tường Long ở Đồ Sơn, năm 1086 – 1087 xây tháp ở chùa Tiên Du, dựng chùa Nhị Thiên Vương Thăng Long.

          Đến đời Lý Nhân Tông đã có nhiều ngôi tháp lớn được khánh thành, không rõ là tháp được dựng tại những ngôi chùa có sẵn hay vừa dựng tháp vừa xây chùa mới. Sử sách ghi lại chùa và tháp Cảnh Long Đồng Khánh hoàn thành vào năm 1094. Vào năm 1099, chùa Vĩnh Phúc được xây ở núi Tiên Du. Chùa Diên Hựu được trùng tu và mở mang thêm vào năm 1105 với 2 bảo tháp. Thời này hệ thống kiến trúc chùa tháp được chú trọng, cụ thể là chùa tháp Vạn Phong ở núi Chương Dương, Hà Nam vào năm 1108; chùa Thắng Nghiêm, lầu Thiên Phật thờ 1000 vị Phật từ năm 1114 đến 1118 mới hoàn thành.

          Bên cạnh các chùa do triều đình xây dựng, còn có những ngôi chùa do vương công đại thần lập nên và những ngôi chùa do dân chúng xây dựng. Theo nguồn sử liệu các văn bia nhà Lý ghi thì Lý Thường Kiệt xây chùa Linh Xứng ở Ngưỡng sơn, Thanh Hóa vào năm 1107. Chùa Báo Ân ở núi An Hoạch vào 1100, chùa Bảo Ninh Sùng Phúc ở Tuyên Quang vào năm 1107, chùa Sùng Nghiêm Thanh Hóa kiến tạo vào năm 1117, chùa Diên Phúc Nam Định hoàn thành năm 1197, về sau đổi tên thành chùa Viên Quang.

          Năm 1080, theo đề nghị của các đại thần, vua Lý Anh Tông chia chùa làm ba loại: 1. Đại danh lam, chùa lớn; 2. Trung danh lam, chùa vừa vừa; 3. Tiểu danh lam, chùa nhỏ.

          Theo các công trình khảo cổ học cho biết thì kiến trúc chùa Lý cho ta một loạt chùa có kiến trúc mặt bằng hình vuông hay gần vuông có thể là hình thức kết hợp chùa và tháp, đó là sự kế thừa từ thời Phật giáo du nhập và phát triển trước thế kỷ X. Tiêu biểu như chùa Lạng còn gọi là chùa Hương Lãng, hay Viên Quang có diện tích là hình vuông, gồm 3 bậc, bậc thứ nhất 20.2m x 23.6m; bậc thứ hai 15.2 m x 18.8 m, bậc thứ ba 8.2m x 10.4m. Bậc thứ ba là điện thờ, nay còn là bệ tượng Phật bằng đá hình sư tử đội tòa sen.

          Chùa Sùng Thiện Diên Linh được kiến tạo theo mô hình mẫu mực, văn bia ghi: “Lại có đài cao thất bảo, xếp thành một dãy, chính giữa có ngọn núi vàng. Đặt tượng đẹp Đa Bảo Như lai, bày chân hình xe pháp mấy tầng,… Thứ đến hai toà bạch ngân; bên tả đặt chân dung tượng A DI ĐÀ; phía hữu để xá lợi của sắc thân màu nhiệm. Chiều cao mở ra thế khoẻ; vẻ đẹp phô rõ mái cong. Long lanh ngỡ tuyết trắng đang tan; rực rỡ ắt trăng thu vằng vặc. Thứ nữa có hai toà điểu văn; bên tả đặt thân mẫu Quảng Bác, phía hữu đặt diệu tướng Bồ đề…”16.

          Chùa Một Cột là một kiến trúc điển hình vào thời Lý, có tên chữ là Nhất Trụ hay Liên Hoa đài. Chùa không còn nguyên vẹn từ năm 1049 dưới thời Lý Thái Tông. Theo Nguyễn Bá Lăng thì kiểu thức trùng tu mà chúng ta thấy ngày nay có thể gần với đời Hậu Lê hơn là thời Lý vì những ngói lợp, vì những hình đắp trên mái và cả những nét chạm trổ trên bộ giàn trò (sưởn nhà). Tuy nhiên tám bộ xóc nách (con sơn) to mập bằng gỗ tỳ vào thân trụ đá để đỡ một tòa chùa vuông vức mỗi cạnh sàn đo được 4.20 m có hành lang cùng bao lan con tiện chạy quanh bốn phía cung thờ Phật Quan Âm, dưới bốn mái góc vươn cong tạo thành một hình khối đẹp, một sáng tác kiến trúc độc đáo, nên chùa Nhất Trụ vẫn xứng đáng nổi danh là biểu trưng cho nét đặc thù của nền kiến trúc Việt Nam.

          Chùa Thầy được xây dựng vào thời Lý mang dấu ấn kiến trúc mà ngày nay còn lưu giữ có những nét riêng biệt. Từ một am nhỏ thời Lý, đã phát triển thành ngôi chùa đồ sộ với ba toà Tiền đường – Điện Phật – Điện Thánh xếp hình chữ Tam (三). Nhà cầu nối liền 2 tòa Tiền Đường – Điện Phật với nhau được các nhà nghiên cứu cho rằng: đó là một trong những biểu hiện chữ “công” sớm nhất còn lại cho tới nay ở nước ta. Đặc biệt cả ba toà chùa chính đồ sộ với rất nhiều kèo, cột, trụ,… nhưng chỉ có 36 lỗ đục, còn gỗ được xếp chồng khít lên nhau rất vững chắc không chỉ chứng tỏ sự khéo léo tuyệt vời của các nghệ nhân xưa mà còn gây bất ngờ thú vị cho đời sau.

          Chùa Keo (Thái Bình) do thiền sư Nguyễn Minh Không lập gồm 2 cụm kiến trúc: chùa là nơi thờ Phật và Đền thánh. Là một ngôi chùa tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc đỉnh cao. Hiện nay chùa Keo Thái Bình còn lại 17 công trình với 128 gian. Các công trình chính của chùa được sắp xếp theo một đường trục vô hình gọi là đường thần đạo. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Lan nếu tính tam quan ngoại là điểm đầu và gác chuông là điểm cuối, thì hai điểm này nằm trên một đường thẳng. Đây cũng là trung điểm tạo nên sự đối xứng trong kiến trúc của chùa. Chùa được kiến tạo theo mô hình “nội công ngoại quốc” và “tiền Phật hậu Thánh”. Dấu ấn kiến trúc của chùa là các tòa nhà được thiết kế theo mô hình hai chữ công lồng trong chữ Quốc mà ít chùa có được. Nguyên tắc kiến trúc này tạo cho chùa sự đăng đối, trang nghiêm và bề thế. Chùa Phật Tích huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời, chùa khởi dựng vào năm 1057 với nhiều tòa ngang dãy dọc, được kiến trúc theo kiểu Nội công ngoại quốc. Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh nguyên khối, dát vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, làng đổi tên là Phật Tích và dời cả lên trên sườn núi. Bức tượng cao 1,87 m, một tác phẩm điêu khắc đặc sắc của nền mỹ thuật nước nhà. Đây là điểm nhấn độc đáo khi nói về chùa Phật Tích. Theo Chu Quang Trứ: “Chùa tháp thời Lý là kiến trúc Phật giáo sớm nhất hiện còn dấu tích trên mặt đất và thư tịch. Nó khẳng định một giá trị nghệ thuật dân tộc đặc sắc Phật giáo Việt Nam và của thời đại, xứng đáng mở đầu văn minh Đại Việt và bằng sức lao động sáng tạo của cả dân tộc có trình độ thẩm mỹ cao”.17

          Phật giáo phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm, hướng đến xây dựng nền tảng Phật giáo Nhất tông. Dưới sự điều hành Giáo hội của Pháp Loa, hệ thống chùa Trúc Lâm ra đời. Tính đến năm 1314, Pháp Loa đã xây dựng thêm 33 ngôi tự viện bao gồm điện Phật, tàng kinh các và tăng đường.

          Ngoài việc trùng tu Vĩnh Nghiêm Bắc Giang làm trụ sở Giáo hội Phật giáo Nhất Tông, ông còn kiến tạo am Hồ Thiên, Chân lạc, Yên Mã, Hạc Lai và mở rộng thêm các công trình chùa Thanh Mai và Côn Sơn, đồng kiến tạo nhiều bảo tháp như Linh Tế ở núi Dục Thúy Ninh Bình, tháp Hiển Diệu ở núi Tiên Long, Ninh Bình. Ở núi Yên Tử nhiều ngôi chùa và bảo tháp được xây dựng thành quần thể chùa Yên Tử.

          Các nhà nghiên cứu cho rằng kiến trúc chùa tháp thời Trần được thiết kế có kết cấu các thượng điện khá giống nhau, 1 gian hai chái với 4 cột cái khá lớn và 12 cột quân. Có hai bộ vĩ đỡ hai mái chính và hai mái bên. Bộ vì đều làm theo kiểu giá chiêng, gồm câu đầu khỏe tỳ lực lên đầu hai cột cái. Bên trên câu đầu là hai trụ giá chiêng, tức hai trụ trốn, thường được chạm khắc đẹp. Thượng điện thời Trần chính là nếp chùa, với bộ khung bằng gỗ mà các cột là phần chịu lực. Các mái thường được lợp ngói mũi hài, có tường bao quanh chùa.

          Chùa Phổ Minh còn gọi là chùa Tháp, tỉnh Nam Định được xây dựng từ thời Lý, nổi tiếng với vạc bằng đồng do sư Nguyễn Minh Không tạo, vạc này cùng với tháp Báo Thiên, chuông Phả Lại và Phật Quỳnh Lâm gọi là “Tứ đại khí An Nam”. Đến thời Trần thì được trùng tu hầu như mới do các vua Trần chủ trương. Còn tháp được xây dựng ở sân chùa cao 21 m gồm 14 tầng, nhưng chỉ có tầng dưới là bằng đá, còn 13 tầng trên là bằng đất nung. Bệ đá xanh cao 1.60 m chân rộng 5 m x 5 m là một kiến trúc cổ đặt trên 4 cấp nền và đỡ một tòa sen gồm 2 hai hàng cánh một đường diềm hoa cúc lá cuộn rất tinh xảo. Tất cả các đợt gờ cấp vành chỉ xếp tầng tầng theo chiều nằm ngang đều hớt cong lên ở bốn góc tháp, sỡ dĩ như vậy là để làm tăng diện tích chân tháp, nhằm giải tỏa sức nặng của tháp, nên dưới cho to và rộng để tháp đứng vững hơn. Theo tác giả của Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thì tầng thứ nhất mỗi cạnh rộng 3.20 có xây trụ đá vuông ở 4 góc để đỡ những cây đá cũng bằng đá có đầu nhô ra khỏi thân tháp. Chi tiết này rất hiếm thấy trong nghệ thuật kiến trúc bằng đá tại Việt Nam và đã nhắc lại trong những cơ cấu bằng gỗ. Đây là tác phẩm kiến trúc và mỹ thuật tiêu biểu cho nền văn hóa Phật giáo Việt Nam.

          Thời Trần, dưới sự lãnh đạo của Tam Tổ Trúc Lâm, hệ thống chùa tháp của thiền phái Trúc Lâm được kiến tạo quần thể kiến trúc danh lam thắng cảnh Phật giáo tiêu biểu. Am – chùa Ngọa Vân do thượng hoàng Trần Nhân Tông đến với núi rừng Yên Tử để tu hành, Ngài đã tạo dựng ở đây một am nhỏ để tu thiền, các thế hệ nối tiếp xây dựng thêm nhiều công trình Phật giáo phục vụ cho việc hành đạo nên mới gọi là chùa Ngọa Vân.

          Chùa Quỳnh Lâm được xây dựng trên quả đồi thấp, thuộc triền núi vòng cung Đông Triều kéo từ Yên Tử xuống, xung quanh quả đồi là núi non bao bọc trông giống như hình viên ngọc quý giữa rừng nên đặt tên là Quỳnh Lâm. Thời Trần, chùa Quỳnh Lâm được xây dựng khang trang trở thành một trung tâm Phật giáo lớn của đất nước.

          Chùa Hoa Yên được xây dựng từ thời Lý. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, trong một địa thế hùng vĩ, là một ngôi chùa còn giữ lại ít nhiều dấu tích xưa, chùa được xây dựng trên một triền núi rộng thoai thoải, những người xây dựng đã dựa vào thế núi mà bạt thành hai cấp nền lớn có bó đá chắc chắn. Chùa Một Mái, thời Trần, đây chỉ có một am nhỏ gọi là Am ly trần. Cảnh am tĩnh lặng, thanh thoát, cách xa nơi trần tục (ly trần). Chùa Bảo Sái, vào thời vua Trần Nhân Tông tu hành ở Yên Tử, mới chỉ có am trong động Am được gọi là Ngô Ngữ Viện, đây là nơi tu hành của Bảo Sái, đệ tử thân tín với Thượng hoàng Trần Nhân Tông. Chùa Đồng, chùa nằm trên đỉnh Tử Tiêu, Trần Nhân Tông đã chọn nơi đây làm nơi tĩnh thiền. Vào thời Lê (1428 – 1527), chùa được bà vợ chúa Trịnh công đức xây dựng, toàn bộ kết cấu kiến trúc cũng như đồ thờ tự trong chùa đều được tạo tác bằng đồng, phù hợp với không khí ẩm ướt quanh năm ở nơi đây.

          Chùa Côn Sơn, tỉnh Hải Dương do Phật hoàng Trần Nhân Tông kiến tạo để đào tạo tăng ni, phát triển đạo pháp. Năm 1329, Đệ nhị thánh tổ Pháp Loa xây dựng và mở rộng phong cảnh Côn Sơn. Năm 1330 – 1334, Đệ tam thánh tổ Huyền Quang về chùa Côn Sơn trụ trì và thuyết pháp. Hiện nay, chùa Côn Sơn còn dấu ấn kiến trúc thế kỷ XIV, XVII, XVIII gồm các công trình: Hồ Bán Nguyệt, Tam quan, Lầu chuông, gác trống, Phật điện, Tổ đường, tả hữu hành lang, vườn tháp, giếng ngọc, Am Bạch Vân và 5 miếu thờ “Tứ Độc Sơn Xuyên” (trời đất sông núi) trên núi Ngũ Nhạc.

          3.3. Kiến trúc và mỹ thuật chùa tháp thời Phật giáo Lê – Nguyễn

          Thời Lê – Nguyễn ta thấy đời sống Phật giáo có nhiều sự chuyển biến để đáp ứng các nhu cầu của đời sống thực tiễn. Phật giáo không còn có vị trí và vai trò như thời Trần trong triều đình, nhưng có tầm ảnh hưởng lớn trong đời sống dân gian. Phật giáo dân gian phát triển, các thiền sư được dân gian hóa thành hình ảnh các vị thánh qua các hình thức văn học và với tín ngưỡng lòng thành, nhân dân tôn trí các vị thiền sư hóa thánh vào trong chùa theo cấu trúc “Tiền Phật hậu Thánh” như chùa Trăm Gian, chùa Bối Khê,…

          Theo tác giả Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thì chùa Thiên Phúc (Chùa Thầy, chùa Cả) tại xã Thuỵ Khuê, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Chùa do thiền sư Từ Đạo Hạnh lập ra từ triều Lý, nên tục gọi là chùa Thầy. Chùa Thiên Phúc là chùa chính và lớn hết, nên còn có biệt danh là chùa Cả. Phần chính của chùa là một khuôn viên hình chữa nhật dài 50m, rộng 35m. Chùa gồm có hai dãy hành lang và nhà hậu, tạo thành ngoại vi, bọc ba phía: hai bên và sau lưng khu nội tự. Chùa có hai gác chuông, ba gian làm tường hồi bít đốc nhỏ ở hai bên san sau thượng điện. Nội tự gồm có từ trong ra ngoài: toà thượng điện, toà trung điện và tiền đường.

          Cũng theo tác giả sách này thì tháp đá chùa Hoa Yên là một kiến trúc là tháp thờ Phật hoàng Trần Nhân Tông được trùng tu lại đầu thời Lê. Vốn là bệ của tháp cũ có một bệ đá ghép, to lớn, có bố cục mặt cắt hình lục giác. Trên bệ xây, dựng một tháp mới cao 6 tầng, có mặt cắt hình vuông, nhỏ hơn so với bệ cũ rất nhiều. Tầng dưới vẫn sử dụng lại những tấm đá có chạm cánh sen của tháp cũ. Các tầng trên mới thực sự làm về sau, hoàn toàn bằng gạch và trong mấy chục năm gần đây đã được trát vữa kín bên ngoài. Phần trong tầng này có bức tượng đá Trần Nhân Tông đang ngồi trên ngai, chạm công phu, có trang trí nhiều hoa văn hình rồng, hoa, lá, theo kiểu thức của nghệ thuật thời Lê sơ.

          Nhà Mạc trị vì, việc trùng tu chùa tháp dựa trên nền tảng kiến trúc thời Trần. Một số công trình vào nhà Mạc ta thấy thượng điện có phong cách kiến trúc nhà Trần, như thượng điện chùa Cói với hai ví kèo có trụ giả chiêng cùng bốn cột lớn cái vươn ra góc chéo, liên kết là 12 cột con và 20 cột hiên. Các ván nong ghép với cột con làm thành vách điện. Khoảng thềm dư bên ngoài có những cột hiên làm thành hành lang xung quanh. Ngay cả Phúc Lâm Hoằng Thệ (Hà Tây) cũng có kiến trúc “nội Công ngoại Quốc”.

          Cuộc chiến Trịnh – Nguyễn đã phân nước ta thành 2 cát cứ: Đàng Ngoài do chúa Trịnh nắm giữ; Đàng Trong do chúa Nguyễn trị vị. Cả hai chúa ở Đàng đều dựa Phật giáo để củng cố lòng dân, nhờ vậy các chúa đã cầu thỉnh nhiều vị cao tăng thiền phái Lâm Tế và Tào Động vào, nhờ vậy Phật giáo vào thế kỷ XVII trở nên phát triển mạnh mẽ.

          Ở Đàng Ngoài chùa được xây dựng dưới sự bảo trợ của chúa Trịnh và vương hầu bá tước. Kiến trúc kiểu chữ Công ( 工) được quan tâm gồm 2 tòa nhà nằm song hành theo chiều ngang và một nhà nằm theo chiều dọc, nối hai nhà ngang vào với nhau nơi chính giữa. Thực tế, có nhiều chùa thường được cấu trúc theo kiểu nội Công ngoại Quốc đã có từ thời Trần. Tuy nhiên đến thời Lê – Trịnh thì đã xây tường gạch bao quanh thay ván gỗ và làm tường hồi bít đốc thay vì mái đao tạo nên nét độc đáo của kiến trúc Việt.

          Theo đó các chùa như Bút Tháp, chùa Keo, chùa Mía,… là những ngôi chùa mang dấu ấn kiến trúc đặc biệt vào thế kỷ XVII. Theo Hồ sơ xếp hạng di tích – Tư liệu Cục Di sản văn hóa, tác giả Nguyễn Khắc Đoài viết thì chùa Bút Tháp được xây dựng từ đời vua Trần Thánh Tông (1258 – 1288), dưới thời Trần, thiền sư Huyền Quang đã cho tu sửa chùa và trụ trì tại đây. Chùa từng là nơi trụ trì của Thiền sư Chuyết Chuyết – tổ thứ 34 của Thiền phái Lâm Tế, một Thiền phái chịu ảnh hưởng nhiều của Phật phái Trúc Lâm thời Trần. Vào những năm 1642 – 1674, chùa được các quý tộc triều Lê cho dựng lại, với quy mô rất lớn, theo kiểu “trăm gian” và có mặt bằng kiến trúc kiểu “nội Công ngoại Quốc”.

          Chùa Bút Tháp là đỉnh cao của một công trình kiến trúc nghệ thuật, tiêu biểu cho phong cách mỹ thuật thời Lê Trung Hưng, thế kỷ XVII. Các cấu kiện kiến trúc được chạm khắc cùng hệ thống hiện vật phong phú, đa dạng… là những di sản văn hóa vô cùng quý giá của dân tộc ta.

          Trong khi đó ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn cũng tôn sùng đạo Phật, khởi đầu là chúa Nguyễn Hoàng khi vào trấn thủ vùng đất Thuận Quảng đã cho xây dựng chùa Thiên Mụ từ năm 1601, tiếp đến là chùa Sùng Hóa (Thuận Hóa), chùa Kính Thiên (Quảng Bình), chùa Bảo Châu và chùa Long Hưng (Quảng Nam). Các thiền sư phái Lâm Tế (Trung Hoa) được các chúa thỉnh cầu sang Đàng Trong. Thiền sư Nguyên Thiều, đã xây dựng chùa Thập Tháp Di Đà ở Bình Định, chùa Hà Trung, chùa Quốc Ân ở Thuận Hóa. Thiền sư Giác Phong xây chùa Thiên Thọ (Báo Quốc); thiền sư Tử Dung lập chùa Ấn Tôn (Từ Đàm); thiền sư Từ Lâm đã dựng chùa Từ Lâm.

          Các thiền sư phái Tào Động Trung Hoa đến Đàng Trong đầu tiên phải kể đến thiền sư Hưng Liên, lập chùa Thiên Thai ở Quảng Nam. Thiền sư Liễu Quán xuất thân từ Phú Yên, đệ tử thiền sư Tử Dung đã khai sơn ra chùa Thiền Tôn và chù Viên Thông ở Thuận Hóa, đồng thời khai sơn chùa Hội Tông Cổ Lãm, Bảo Tịnh ở Phú Yên.

          Trong cuộc hành trình mở cõi phương Nam, các chúa đã vào vùng đất mới khai khẩn. Các thiền sư đã vào Gia Định để truyền bá đạo Phật, nhưng trên hết là củng cố lòng dân di cư. Thiền sư Đạt Bổn từ Quy Nhơn vào lập chùa Thiên Trường (Gia Định) năm 1755. Cũng tại Gia Định trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (trị vì 1738-1765) một ngôi chùa khác được thành lập là chùa Tập Phước. Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì thiền sư Viên Quang đã lập chùa Tập Phước rồi giao lại cho đệ tử trông nom để về trụ trì tại chùa Giác Lâm.

          Năm 1638 đời chúa Nguyễn Phúc Lan (trị vì 1635-1648), thiền sư Bổn Kiểu từ miền Trung vào Nam hoằng đạo. Năm 1664, sư khai sơn chùa Long Thiền. Sau thiền sư rở về nguyên quán, đại sư Nguyên Thiều được triều đình ra lệnh thỉnh triệu về kinh (Phú Xuân). Hai vị đệ tử của thiền sư là Thành Nhạc và Thành Đẳng. Thành Nhạc kế nghiệp tổ ở Long Thiền tự, còn Thành Đẳng thì khai sơn chùa Đại Giác năm 1665.

          Ngoài Gia Định, các nơi khác như Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh đến tận Hà Tiên cũng được các vị thiền sư đến hoằng hoá. Ở Tây Ninh có thiền sư Thiện Hiếu, húy Đạo Trung (đệ tử của thiền sư Đại Cơ), khai sơn chùa Linh Sơn trên núi Bà Đen năm 1763. Theo các nhà nghiên cứu, chúng ta nhận thấy rằng ngoại trừ chùa Thiên Mụ có một cách phối trí riêng, còn các chùa ở Đàng Trong đều có cấu trúc theo một mẫu, toà chính điện, nhà đông lang, nhà tây lang và nhà hậu (nhà tổ) đều làm quây bọc bốn phía quanh một sân kín thành thế chữ Khẩu ( ). Ngoài kiến trúc chính này, trước mặt thường có sân lát gạch, ba phía xây tường hoa, hai bên sân có khi xây toà bi đình lục giác, hai tầng mái trùng thiềm, khum nóc long đình như ở chùa Từ Hiếu, Báo Quốc, Diệu Đế.

          Chùa Báo Quốc tọa lạc trên đồi Hàm Long thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế… là do thiền sư Giác Phong khai sơn. Năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Cho đến năm 1808, hoàng hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây tam quan, chú tạo nhiều tượng Phật, đúc bảo khánh, đại hồng chung… Cũng thời gian đó, Vua Gia Long chỉ dụ đổi tên chùa là Thiên Thọ Tự. Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc lấy tên “Báo Quốc Tự”. Đến năm 1858, do chùa hư hỏng nhiều, vua Tự Đức và hoàng thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu.

          Chùa Báo Quốc được xây dựng kiểu chữ Khẩu ( ) với mặt trước là ngôi chánh điện, phía sau ngôi chánh điện hai bên có nhà Đông lang và Tây lang, sau cùng là nhà hậu. Các dãy nhà khép kín thành hình vuông trông giống chữ “khẩu” trong chữ Hán. Nói chung chùa Báo Quốc là ngôi chùa tiêu biểu của kiến trúc Phật giáo xứ kinh kỳ, là nơi đào tạo tăng tài cả nước, nay là Trường Trung cấp Phật học Huế.

          Chùa Linh Mụ do chúa Nguyễn Hoàng khởi nguyên xây dựng từ buổi đầu ra trấn thủ xứ Thuận Hóa. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Chúa cho đúc một chiếc chuông lớn, nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó vào năm 1710. Sau đó chúa lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, tăng phòng, thiền đường mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Năm 1844 nhân dịp mừng lễ “bát thọ” của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyên và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua.

          Tháp Phước Duyên là một công trình mang dấu ấn lớn với chùa Thiên Mụ. Tháp Phước Duyên đượcxem là biểu văn hóa Phật giáo đất thần kinh, còn các công trình khác như vệ tinh bao quanh, tạo thành một tổ hợp kiến trúc tôn giáo độc đáo, khác lạ, nhưng vẫn đậm chất Huế. Tháp cao 21 m, gồm 7 tầng, mỗi tầng cao 2 m, được xây bằng gạch mộc, phần bó vỉa được xây bằng đá thanh trở từ Thanh Hóa vào. Tháp được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Chính diện của tòa tháp hướng về phía Nam, nơi có dòng sông Hương nước trong xanh chảy qua.

          Tháp Phước Duyên là công trình Phật giáo duy nhất tại Huế được trang trí bằng nghệ thuật pháp lam, vốn chỉ được sử dụng cho các kiến trúc cung đình. Theo chúng tôi, nhà Nguyễn muốn khẳng định chùa Linh Mụ và tháp Phước Duyên là công trình văn hóa Phật giáo tiêu biểu của kinh đô xứ Huế được vương triều tạo dựng, minh chứng cho thế giới Phật quốc mà các vua chúa nhà Nguyễn phải hộ trì để Quốc thái dân an muôn đời.

          Bên cạnh đó, kiến trúc chữ “Tam” (三), cũng được tạo dựng ở các chùa vùng đất Gia định như chùa Giác Lâm, chùa Thầy Tây An ở núi Sam Châu Đốc …Chùa thường có ba tòa nhà chính: Chánh Điện, Nhà Giảng, nhà Trai đường,.. Kiểu kiến trúc này khá phổ biến ở các chùa miền Nam sau này. Chùa Giác Lâm hay chùa Cẩm Đậu hoặc chùa Cẩm Sơn là ngôi chùa xưa nhất Gia Định. Chùa là tổ đình của phái thiền Lâm Tế ở miền Nam và coi như là cái nôi của Phật giáo Gia Định vào triều Nguyễn (1802-1945), từ đây phát triển ra khắp miền Nam.

          Chùa Giác Lâm là theo kiểu chữ Tam (三) gồm ba dẫy nhà ngang, ba gian hai chái nối liền nhau, nhưng chánh điện và nhà giảng giáp mái liền nhau, còn trai phòng (nhà Trung Giám) cách nhà giảng một sân kín, hai bên có tả hữu hành lang nối với nhà giảng. Giữa sân đắp non bộ (giả sơn). Vườn tháp ở bên trái chùa có nhiều tháp cổ và có một tháp kiểu độc đáo, tầng trên đắp vành cuốn lá bồ đề Ấn Độ và nơi đây xây bảo tháp lục giác bẩy tầng.

          Ngôi chùa Tây An chỉ là một am cỏ ở núi Sam Châu Đốc, sau lớn dần. Đến thời Gia Long-Minh Mạng được bà Bảo hộ Thoại đứng ra hưng công thành một quy mô chùa to rộng nguy nga. Chùa ngày xưa cất theo kiểu chữ “Tam” gồm ba dẫy nhà ngang rộng nối liền nhau bằng hành lang, hai bên là những kiến trúc sườn gỗ lợp mái ngói. Đến khoảng năm 1960- 63, hoà thượng Bửu Thọ đã cho xây thêm ở trước chính điện Phật đài hai lầu chuông trống Phật đài làm theo kiểu Ấn Hồi. Những kiến trúc mới này đã được thực hiện bằng xi măng cốt sắt nhưng được trang trí đắp nặn theo hai truyền thống cổ truyền Á Châu (Ấn Hồi và Hoa Việt) một cách điêu luyện và khéo léo.

          3.4. Kiến trúc chùa tháp Phật giáo thời hiện đại

          3.4.1. Kiến trúc chùa tháp theo mô hình truyền thống kết hợp hiện đại

          Kiến trúc chùa tháp thời hiện đại được hình thành và phát triển từ khi có sự giao lưu văn hóa phương Tây ở nước ta, từ đó có sự giao thoa kiến trúc Đông Tây. Đầu thế kỷ XX, thì phong trào chấn hưng Phật giáo khởi phát tại Nam kỳ, sau đó lan tỏa ra Trung Kỳ và Bắc kỳ. Phong trào chấn hưng Phật giáo đã đem lại diện mạo mới cho Phật giáo, đồng thời tạo nên luồng gió mới trong việc kiến trúc xây dựng chùa chiền vừa bảo lưu giá trị truyền thống, đồng thời kết hợp kỹ thuật xây dựng hiện đại trong sự giao lưu văn hóa kiến trúc phương Đông và phương Tây.

          Chùa Xá lợi là ngôi chùa được kiến tạo từ Hội Phật học Nam Việt. Năm 1956, hội khởi công xây dựng ngôi chùa mới, đặt tên là chùa Xá Lợi, vì chùa được hội Phật Giáo thế giới tặng một viên ngọc xá lợi Phật để thờ tại chùa. Đồ án chánh điện do kiến trúc sư Đỗ Bá Vinh nghiên cứu, còn tháp chuông thì do kiến trúc sư Võ Minh Nghiệm họa kiểu. Tượng Phật do giáo sư Trương Đình Ý đắp.

          Chùa bắt đầu xây dựng từ tháng 8 năm 1956 đến tháng 5 năm 1958 thì hoàn thành, với kiến trúc theo lối mới, mở đầu cho lối kiến trúc trên bái đường, dưới giảng đường ở Việt Nam. Các hạng mục của chính của chùa Xá Lợi gồm: Chính điện thờ Phật; Giảng đường; Tháp chuông 7 tầng; Thư viện, phòng đọc sách; Cổng tam quan; Khu tăng phòng; Nhà trai đường; Văn phòng ban Quản trị; Đoàn quán Gia đình Phật tử; Phòng phát hành kinh sách; Nhà khách tăng; Khu trù phòng Cư sĩ; Vãng sanh quán; Vườn cảnh. Di chuyển từ cổng tam quan vào bên trong khuôn viên chùa là tháp chuông bảy tầng cao 32m được lập kỷ lục là tháp chuông cao nhất Việt Nam hiện nay. Cấu trúc của tháp chuông gồm 7 tầng, mỗi tầng tháp có cấu trúc bát giác sẽ thờ một vị Phật khác nhau. Gần đây chùa đã được tôn trí thêm tượng đài Quan Âm lộ thiên như là dấu ấn lớn có tầm vóc biểu trưng kiến trúc mỹ thuật cho những ngôi chùa lớn của Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh. Với thời gian hơn 60 năm, ngôi chùa lịch sử này vừa được trùng tu theo nguyên mẫu ban đầu, để giữ gìn giá trị kiến trúc mang phong cách của chùa Xá Lợi.

          Hội An Nam Phật Học ở Trung kỳ dưới sự lãnh đạo của thiền sư Giác Tiên, trụ sở thì mới đầu đặt tại chùa Trúc Lâm. Về sau Hội quyết định dời về chùa Từ Đàm.

          Chùa Từ Đàm do thiền sư Tử Dung từ Trung Hoa sang Đàng Trong khai sơn, sau khi được dùng làm trụ sở của Hội An Nam Phật học thì được xây cất mới. Theo tác giả Nguyễn Bá Lăng thì khác với các chùa xưa bình đồ chữ Khẩu (口) và cất dựng bằng gỗ và trong lòng có nhiều cột, chùa Từ Đàm mới làm bình đồ chữ nhật dài, gồm phần trong làm chính điện rộng rãi, không có cột, chỉ có tường trổ cửa sổ ở hai bên, trang trí dạng chữ Vạn 卍. Phần ngoài là tiền đường có hàng trụ hiên xây vuông đắp câu đối chia làm năm khoang, đội hai tầng mái nhỏ (trùng thiềm). Giữa hai tầng mái nơi cổ diêm, trong những ô khung đắp hình ảnh về lịch sử đức Phật đắp nổi, đường nét khá sắc sảo. Trên những mái lợp ngói ống, có đắp những đường bờ lớn cùng những hồi long uốn khúc, mặt nguyệt,… Vào năm 2006 chùa đã tổ chức tái thiết lại ngôi chánh điện và các công trình phụ trợ. Công trình mới có chiều dài 42 m, chiều ngang 35,9 m, gồm hai tầng, được kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, gồm ba gian hai chái, và hai bện có lầu chuông, lầu trống. Đây là kiểu kiến trúc mỹ thuật truyền thống của chùa Huế mang dấu ấn cổ kính. Chùa được thiết kế khu tiền đường, khu chính điện, khu nhà Tổ, tháp Ấn Tôn và phòng lưu niệm. Sau chính điện chính là khu nhà Tổ. Tháp Ấn Tôn, mỗi tầng của tháp Ấn Tôn sẽ thờ một tượng Phật bằng đồng.

          Ngôi chùa trụ sở của Hội Phật giáo Bắc Kỳ có tên gọi là chùa Quán Sứ, Hà Nội. Theo tác giả Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thì chùa được xây dựng theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn. Chùa gồm có ở trước mặt một ngọn tháp vuông chém cạnh gồm chín tầng cao khoảng 40m. Hai bên xây hai cánh nhà nối vào, mái trùng thiềm (mái kép). Sau lưng tháp là phần chính điện làm theo chiều dọc, mái chồng chất tới ba lớp như mái chùa Lào. Nhưng mái tháp và mái chùa tuy làm chồng chất theo lối xưa nhưng không làm đao góc như những công thự kiểu phối hợp Âu-Á do các kiến trúc sư người Pháp thực hiện ở Hà Nội bấy giờ.

          Hội quán mới của hội Phật giáo Bắc Kỳ được khởi công vào cuối năm 1937, đồng thời ngôi chùa Quán Sứ mới này là một kiến trúc khá đồ sộ được thực hiện bằng chất liệu thời đại của bê tông, vôi, gạch ngói. Toà chính điện, dưới có tầng hầm, trên mái trùng thiềm (chồng diêm), bình đồ chữ Công (工). Toà trước toà sau, đều năm gian, có hàng hiên bao quanh các mặt. Cách chính điện khoảng gần chục thước là những nhà phụ thuộc dùng làm văn phòng tăng xá, lớp học, nhà in bao quanh ba phía tả, hữu và sau lưng. Trước mặt chính điện tam quan nhìn ra phố. Bình đồ bố trí như vậy cũng là gần đúng với lề lối cổ truyền miền Bắc.

          Bên cạnh đó còn có những ngôi chùa mang kiến trúc thẩm mỹ truyền thống có sự kết hợp sáng tạo giao lưu văn hóa phương Đông – Tây, mang hơi thở của thời đại mới như chùa Vĩnh Tràng ở Tiền Giang, chùa Thích Ca Phật Đài, chùa Nam Thiên Nhất Trụ, chùa Ấn Quang và Vĩnh Nghiêm…Mỗi công trình là một vẻ kiến trúc mỹ thuật riêng biệt từ không gian kiến trúc, phối cảnh cho đến mỹ thuật điêu khắc hoành phi và tôn trí tượng Phật và Bồ tát, thiện thần.

          Chùa Việt Nam Quốc Tự được kiến tạo sau biến cố của Phật giáo năm 1963, tranh đấu Phật giáo. Công trình kiến trúc của Việt Nam Quốc Tự do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế, dự kiến xây dựng một ngôi tháp 7 tầng mái cong, chạm trổ tinh vi. Đồ án mới xây xong bảo tháp bảy tầng và một dãy tăng xá chưa hoàn thành. Năm 1993, Hòa thượng Từ Nhơn trùng tu ngôi tháp 7 tầng, cao 30m.

          Vào năm 2014, Hòa thượng Thích Trí Quảng, đứng ra xây dựng Việt Nam Quốc Tự thành trung tâm hành chính – văn hóa của Thành phố. Chùa được xây dựng theo kiến trúc cổ miền Bắc. Mái chùa xây dựng nhiều tầng, đầu mái công vuốt hình đầu đao, được điêu khắc đầu rồng rất tinh xảo. Tòa chánh điện, là nơi trang trí những bức phù điêu hình rồng, phượng đậm nét kiến trúc truyền thống chùa miếu Việt Nam.

          Hành lang bao quanh chùa được thiết kế hài hòa. Từ bên ngoài nhìn vào, Việt Nam Quốc Tự được thiết kế lối kiến trúc Á – Âu kết hợp vừa mang nét cổ kính vừa mang nét hiện đại. Dấu ấn của chùa là tòa chính điện hoành tráng và ngôi bảo tháp 13 tầng đồ sộ, cao 63m. Đỉnh tháp được đúc bằng đồng nguyên khối. Ngoài ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần phụng sự, thống nhất của 13 tổ chức, hội đoàn, tông phái tham gia cuộc tranh đấu bất bạo động của Phật giáo vì hòa bình và bình đẳng tôn giáo tại miền Nam năm 1963, đây còn là nơi tôn thờ xá lợi trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức, biểu tượng cho tinh thần Phật giáo Việt Nam đối với đạo pháp và dân tộc.

          Đối diện tháp là tượng Quan Âm lộ thiên tay bắt ấn, tay nâng bình cam lồ. trước chánh điện, hai bên tả hữu là lầu đại hồng chúng và lầu trống Bát Nhã. Bên trong Chính điện, gian giữa là nơi tôn trí tượng Phật Thích Ca bằng đồng, cao 7,5m nặng 35 tấn, đây là pho tượng bằng đồng thờ trong chánh điện lớn nhất Việt Nam, tạo dấu ấn mỹ thuật Phật giáo đối với người đến chiêm ngưỡng.

          Bên cạnh các ngôi chùa kiến trúc hiện đại, cần kể đến hệ thống chùa Trúc Lâm do Hòa thượng Thích Thanh Từ chủ trương phục hưng thiền phái Trúc Lâm. Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt là ngôi chùa đầu tiên do Hòa thượng xây dựng vào năm 1993 theo bản vẽ của kiến trúc sư Vũ Xuân Hùng và Trần Đức Lộc và sự góp ý của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo được phối cảnh cùng với thiên nhiên hữu tình bên cạnh hồ Tuyền Lâm. Chính điện có diện tích gần 200 m, bên trong tôn trí tượng đức Bổn sư cao khoảng 2m, tay phải cầm cành hoa sen đưa lên gọi là bức tượng “Phật Thích Ca Niêm Hoa Vi Tiếu”. Ở phía trên chánh điện có các bức phù điêu chạm khắc tinh sảo về 8 tướng thị hiện của Ngài. Bên trái còn có tượng Bồ Tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng 6 ngà, bên phải là tượng Bồ Tát Văn Thù cưỡi Sư tử. Kiến trúc tả hữu là lầu trống và lầu chuông. Thiền viện là tác phẩm tuyệt đẹp của công trình kiến trúc và mỹ thuật Phật giáo Việt thời hiện đại.

          3.4.2. Kiến trúc chùa tháp theo mô hình mang tính chức năng

          Giáo hội Phật giáo Việt Nam chủ trương đào tạo tăng tài là một trong Phật sự quan trọng nhất, ngành Giáo dục Phật giáo đã hình thành hệ           thống giáo dục học đường gồm có 4 Học viện đào tạo chương trình Đại học và sau Đại học, 34 Trường Trung cấp Phật học, 9 lớp Cao đẳng, các lớp Sơ cấp Phật học. Vì thế, các cơ sở Giáo dục Phật giáo các cấp đã hình thành với mô hình kiến trúc mang tính chức năng phục vụ cho công tác giảng dạy, đào tạo tăng ni, nội trú 100%.

          Tiêu biểu là 4 Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ với kiến trúc của 1 đại học Phật giáo có tầm khu vực, diện tích mỗi học viện là trên dưới 20 héc ta, bao gồm các tòa hành chánh, tòa học đường, giảng đường, hội trường phòng lab, thư viện, giáo thọ, tăng xá, ni xá, nhà trai đường, nhà trù và cả khu thể thao. Kiến trúc hiện đại đáp ứng nhu cầu sinh hoạt học thuật và đào tạo. Các Học viện đều có ngôi chùa cho tăng ni tu học theo quy cũ thiền môn. Các trường Trung cấp như Đồng Nai, Bình Định, Bình Dương…cũng đã theo mô hình này.

          Bên cạnh đó, còn có một mô hình kiến trúc chùa tháp có chức năng thành trung tâm hành hương tâm linh đáp ứng nhu cầu chiêm bái, thưởng ngoạn và tổ chức sự kiện Phật giáo mang tầm quốc tế như Chùa Bãi Đính, Tam Chúc, Linh Ứng….. Có thể noí đây là những quần thể kiến trúc Phật giáo tiêu biểu được kiến tạo những năm gần đây

          4. Một số nhận định về kiến trúc chùa tháp Việt Nam

          Qua 2500 năm lịch sử, hệ thống chùa chiền Việt Nam đã hình thành và phát triển với nhiều mô hình kiến trúc chùa tháp bao gồm Phật điện ở bên trong và các công trình chức năng bên ngoài Chánh điện (Kiến trúc nội thất và ngoại thất của một ngôi chùa) qua các thời kỳ lịch sử có những đặc điểm như sau:

          4.1. Theo các nhà nghiên cứu thì kiến trúc các ngôi chùa đầu tiên ở nước ta có thể là những ngôi đền thờ thần truyền thống của tín ngưỡng bản địa, rồi thỉnh Phật vào các đền thờ. Trong các thế kỷ đầu Phật giáo Việt Nam ảnh hưởng trực tiếp văn hóa Phật giáo Ấn Độ, trong đó có kiến trúc Phật giáo Ấn về việc xây dựng chùa tháp theo mô hình kiến trúc chùa tháp kết hợp giữa tinh xá (vìhàra) và Phật điện (caitaya). Theo các nhà khảo cổ học thì bình đồ kiến trúc chùa có thể là hình vuông, cũng có thể là những hình tháp (stupa) có nguồn gốc từ Ấn Độ. Những kiến trúc này còn tồn tại đến những giai đoạn sau.

          4.2. Đến khi nước nhà độc lập, quốc gia Đại Việt với chủ trương phục hưng văn hóa nước nhà, Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh mẽ, theo đó kiến trúc chùa tháp được các nhà nước phong kiến Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần lấy Phật giáo làm tư tưởng để hình thành kiến trúc chùa tháp là phần lớn là theo mô hình chữ Tiền đường – Điện Phật – Điện Thánh xếp hình chữ Tam (三), hay mô hình “nội công ngoại quốc” và “tiền Phật hậu Thánh”. Sang thời Lê Nguyễn phân tranh thì ở Đàng Ngoài vẫn tiếp tục trùng tu và xây dựng mô hình của thời Lý – Trần như là đặc sắc văn hóa kiến trúc Phật giáo Đại Việt. Còn ở Đàng Trong các vương triều nhà Nguyễn các chùa tháp phần lớn ảnh hưởng kiến trúc Hoàng cung theo mô hình Tiền Phật – hậu Tổ Đông lang – Tây lang tạo thành chữ kiểu chữ Khẩu ( ).

          4.3. Vật liệu xây dựng các ngôi chùa tháp truyền thống thuần túy là gỗ, ngói, gạch, đá… thuần túy tự nhiên, do đó độ của các công trình vừa phải, cảm giác gần gũi, thân thiện, chùa trong ý niệm là ngôi nhà tâm linh của cộng động người Việt. Không gian thiên nhiên hữu tình và thế tựa vào núi, chân đồi…Tất cả tạo nên tác phẩm kiến trúc mỹ thuật mang dấu ấn Phật giáo Việt Nam.

          4.4. Sang thời hiện đại, từ những thập kỷ đầu thế kỷ XX, trước trào mới trong kiến trúc mới qua sự giao thoa văn hóa phương Tây, kiến trúc chùa tháp Việt Nam với các vật liệu sắt thép, xi măng đã phát triển ở miền Nam, rồi lan tỏa ra miền Bắc, gần như chiếm số đông cho đến nay như các công trình chùa Vĩnh Tràng ở Tiền Giang, chùa Thiền Lâm Vũng Tàu, chùa Xá lợi, Vĩnh Nghiêm…ở Thành phố Hồ Chí Minh, hệ thống chùa Trúc Lâm do Hòa thượng Thanh Từ chủ trương, chùa Yên Phú, Pháp Vân ở Hà Nội… Các công trình chùa này thường có độ cao và kết cấu khẩu độ tùy theo diện tích lớn hay nhỏ khác hẳn khẩu độ chùa làm bằng nguyên liệu gỗ.

          4.5. Sự phân loại chùa trong các vương triều phong kiến nước ta, nhất là từ thời Lý Trần về sau thường chia thành 3 loại: đại danh lam, chùa lớn; trung danh lam, chùa vừa vừa; tiểu danh lam, chùa nhỏ, chùa làng. Ngày nay, sự phân loại càng đa dạng hơn nữa, xuất hiện nhiều mô hình kiến trúc chùa mang tính chức năng như cơ sở đào tạo, trung tâm hành chánh Phật giáo các cấp của Giáo hội, trung tâm hành hương tâm linh…

          5. Một vài kiến nghị

          5.1. Trong xu hướng đất nước ta hội nhập toàn cầu, vấn đề bảo lưu và phát huy các giá trị kiến trúc chùa tháp truyền thống được công nhận là di sản quốc gia là vấn đề ưu tiên hàng đầu. Việc trùng tu và phục dựng di sản cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và có kế hoạch thực thi do Hội đồng khoa học kiến trúc thẩm định và giám sát thực hiện. Do đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ban văn hóa Trung ương GHPGVN cần nối kết với các cơ quan chức năng Văn hóa để cùng chung tiếng nói khi trùng tu và phục dựng các công trình văn hóa Phật giáo chùa tháp mà tổ tiên cha ông tạo dựng.

          5.2. Với tốc độ và thành tựu khoa học kỹ thuật của thời đại 4.0, ngày nay vật liệu xây dựng da dạng và phong phú, mỗi công trình chùa tháp khi xây dựng mới hay trùng tu cần cần phải phát huy tính sáng tạo để thay thế vật liệu cũ nhất là nguyên liệu gỗ ngày càng hiếm mà vẫn bảo đảm tính hài hòa, thích ứng với môi trường mang tính của thời đại trên cơ sở vẫn bảo đảm giá trị truyền thống.

          5.3. Trong tiến trình đô thị hóa, các công trình chùa tháp ở các thành phố không còn có diện tích to lớn như xưa. Các chùa trong các thành phố lớn được trùng tu, xây dựng mới thường thiết kế nhiều tầng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và tín ngưỡng của chư tăng và Phật tử, nhưng cần chú ý đến tính hài hòa, tính thẩm mỹ kiến trúc Phật giáo của một ngôi chùa.

 

 

 

_Chú thích:

12. Viện Văn hc, Thơ Văn Lý – Trn, tp 2, Nxb. Khoa hc Xã hi, Hà Ni, 1989, tr. 497 504.
13. Lê Mnh Thát, Nghiên cu Thin uyn tp anh (tái bn có bsung), Nxb. Hồng Đức, 2021, tr.208.
14. Nguyn Bá Lăng, Kiến trúc Pht giáo Vit Nam, tp 1, Nha tu thư Viện Đại hc Vn Hnh, 1972, tr.61
15. Đại Vit sử ký toàn thư, tp I, Nxb Khoa hc Xã hi,1998, tr. 242 268
16. Viện Văn hc, Thơ Văn Lý – Trn, tp 1, Nxb. Khoa hc Xã hi, Hà Ni, 1977, tr. 404 405.
17. Chu Quang Trứ (1990), “Chùa Vĩnh Nghiêm (Hà Bc), Tập văn Vu Lan, s18, Ban Văn hoá Trung ương – GHPGVN, tr.78

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), bản dịch, tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
  2. Thích Phước Đạt (2022), Văn hoá Phật giáo Việt Nam: tiếp biến và hội nhập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  3. Nhiều tác giả (2017), Văn hóa nghệ thuật thời Lý, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội
  4. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
  5. Tống Trung Tín (1977), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và Trần (thế kỷ XI – XVI).
  6. Chu Quang Trứ (1990), “Chùa Vĩnh Nghiêm (Hà Bắc), Tập văn Vu Lan, số 18, Ban Văn hoá Trung ương – GHPGVN.
  7. Lê Mạnh Thát (2021), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh (tái bản có bổ sung), Nxb. Hồng Đức,
  8. Nguyễn Bá Lăng (1972), Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nha tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh.
  9. Viện Văn học (1977), Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  10. Viện Văn học (1989), Thơ Văn Lý – Trần, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.