1. Dẫn nhập
Phật giáo truyền nhập vào Việt nam từ đầu Công Nguyên và sớm trở thành một phần của văn hóa dân tộc.
Phật giáo đã có những tác động mạnh mẽ đến phong tục tập quán, đạo đức, lối sống của nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam.
Những giá trị tư tưởng triết học, văn học, nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc Phật giáo… đã trở thành những yếu tố cấu thành văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong nền văn hóa truyền thống Việt Nam.
Đối với kiến trúc Phật giáo Việt Nam cũng vậy, nó ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của Phật giáo Việt Nam.
Sự sắp xếp các lớp kiến trúc trong các ngôi chùa Việt ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ là các giải pháp hợp lý về không gian, ánh sáng, thông gió… để giúp cho sự sắp xếp, bài trí và bảo vệ các pho tượng Phật, Bồ Tát, La Hán, Sư Tổ… theo tinh thần triết học đã được dẫn giải trong các đại tạng kinh.
Thông thường các lớp kiến trúc trong một ngôi chùa Việt ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ thường được xếp đặt trên trục đường thần đạo và đối xứng sang hai bên theo nguyên tắc cân bằng-hình khối và màu sắc ( Đăng đối hoặc đăng đối giả ) , các lớp kiến trúc bên trong là cao nhất, rồi thấp dần với những lớp kiến trúc bên ngoài. Tổng thể thường được phân lớp và xếp đặt như sau :
2. Kiến trúc Tam quan
Chùa nào cũng vậy, trước chính điện bao giờ cũng là kiến trúc Tam quan, gồm ba cửa rộng, tầng trên là gác chuông. Tam quan là ba điều xem xét cho rõ trong Đạo Phật. Ba điều ấy là Không Quan, Dả Quan và Trung Quan.
Theo Trần Trọng Kim trong sách Phật Lục thì:
Không Quan: Là xét sự vật gì cũng không có thực tính và thực tướng, tức là cái gì cũng Không cả; Giả quan: Là xét đủ chư pháp đều biến hóa vô thường, tức là giả cả; Trung quan: Là xét theo cái lẽ không phải là Không và không phải là Dả, trung chính là ở giữa có cả Không và Giả, đó là chỗ trọng yếu của con đường tu vào cửa Phật. Bởi vậy, mà người ta mới làm ba cái cửa để biểu thị ba cái lẽ chân thực ấy.
3. Kiến trúc tòa bái đường
Bái đường là không gian kiến trúc có liên quan tới Phật đường, nơi đây được an vị hai pho tượng đức Hộ Pháp rất lớn, để biểu thị cho sức mạnh, quyền uy của hai vị hộ trì pháp Phật.
Đức Hộ Pháp có hình dáng võ sỹ, rất uy nghi, dữ tợn, mặc áo giáp, đội mũ trụ, tay cầm binh khí (đao, trùy), đứng hoặc ngồi trên hai con sư tử, nhân dân thường gọi hai vị Hộ Pháp này là Ông Thiện (Bên tả) và Ông Ác (Bên hữu), biểu tượng của triết lý về sự Khuyến Thiện và Trừng Ác trong tư tưởng của giáo lý Phật giáo Đại Thừa.
Ở những chùa cổ, người xưa chỉ có làm một pho tượng Hộ Pháp được gọi là Vi Đà Thiên Tướng Quân, tức là một vị Thiên Tướng Quân, vâng sắc chỉ của Phật, hộ trì Phật Pháp trong ba Châu là: Đông Châu, Tây Châu và Nam Châu, cho nên người ta thường gọi ngài là đức Tam Châu Hộ Pháp.
Với chức năng bài trí các tượng Hộ Pháp, Vi Đà cao to, nên kiến trúc ở nơi này cũng được nâng cao hơn các không gian kiến trúc khác trong tổng thể của ngôi chùa .
Nhà Bái Đường còn có Ban Thờ Thổ Địa Thần / Thần coi giữ Cõi Địa ( Đặt ở bên trái Bái Đường). Nơi đây còn có ban thờ Long Thần / Long Vương đã Quy Y Phật và có công hộ trì Phật Pháp.
4. Kiến trúc điện thờ Phật
Điện thờ Phật là nơi bài trí tượng các vị Phật, chư vị Bồ Tát và chư vị La Hán… Không gian kiến trúc trong một ngôi chùa chỗ cần xem nhất là Điện Thờ Phật, sự bài trí tượng pháp ở đây rất có ý nghĩa và được xếp đặt như sau : Hàng tượng trên cùng cao nhất : Thờ hết thảy Chư Phật.
Hàng tượng thứ hai: Ở giữa thở Phật và hai bên là thờ hai vị Bồ Tát chủ việc Tiếp Dẫn linh hồn các Chúng Sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.
Hàng tượng thứ ba: Thờ đức Phật Thế Tôn và hai vị đại Bồ Tát chủ việc Giáo Hóa chúng sinh ở cõi Ta bà.
Hàng tượng thứ tư: Thờ Phật Thích Ca sơ sinh ra đời và hai vị Thiên vương làm chủ tể trên cõi Trời.
Các hàng tượng ngoài nữa: Thờ bốn vị Thiên vương và Thiên thần chủ việc hộ trì Phật pháp.
Theo ý nghĩa ấy thì điện thờ Phật phải có bốn hàng tượng hay bảy hàng tượng kể từ trong cùng điện ra bên ngoài bái đường. Do vậy không gian kiến trúc chính của ngôi chùa là ở nơi đây, nó là trung tâm quan trọng nhất, là không gian chính để bài trí các tượng pháp Phật giáo và là nơi diễn ra các nghi lễ của việc thờ cúng. Tại đây cũng là nơi các vị sư trụ trì thường xuyên tụng kinh, niệm Phật hàng ngày.
Động Thập Điện Diêm Vương ở bên phải nơi đây, làm theo điển tích trong Kinh Địa Tạng bản nguyện phô bày những hình phạt ở cảnh Địa ngục.
Trong các điện này có các Diêm vương, các vị Phán quan, Quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa hung tợn, đang hành hình linh hồn của những kẻ có tội lúc sinh thời ở cõi trần gian: “Ở cõi Âm Ty có mười Ông Vua coi mười Điện Động, gọi là Thập Điện Diêm Vương”. Mười ông Vua ấy là :
1. Tần Quảng Vương – Coi Điện thứ nhất.
2. Sở Giang Vương – Coi Điện thứ hai.
3. Tống Đế Vương – Coi Điện thứ ba.
4. Ngũ Quan Vương – Coi Điện thứ tư.
5. Diêm La Vương – Coi Điện thứ năm.
6. Biến Thành Vương – Coi Điện thứ sáu.
7.Thái Sơn Vương – Coi Điện thứ bảy.
8. Bình Đẳng Vương – Coi Điện thứ tám.
9. Đô Thị Vương – Coi Điện thứ chín.
10. Chuyển Luân Vương –Coi Điện thứ mười.
Theo các Điển tích trong sách thì : Khi người chết, linh hồn phải qua mười Điện ấy để Vua Diêm Vương xét hỏi Công Đức và Tội Lỗi mà định ra sự thưởng , sự phạt theo nghiệp lực / Nghiệp báo của người đó do lúc sinh thời đã tạo ra.
5. Kiến trúc nhà Tổ
Tòa Tổ đường còn được gọi là nhà thờ Tổ, là nơi an vị và tôn thờ Linh tượng của các vị sư có tu ở chùa đã viên tịch.
Khi nhà sư viên tịch thì được tạc một pho tượng để thờ nơi Tổ đường, và di cốt thì được an vị trong một ngôi tháp Tổ và tôn thờ mãi mãi.
Theo sách Tượng khí thì Phật giáo Tiểu Thừa chỉ thờ một vị Đại đệ tử của Phật như Kiều Trần Như, hay là Đại Ca Diếp, hoặc Tu Bồ Đề, còn bên Đại thừa thì hay thờ đức Văn Thù Bồ Tát. Ở Việt Nam, trong nhà Tổ còn thờ đức A Nan Đà làm Thánh Tăng.
Trên bàn thờ các vị Tổ thường có một pho tượng tạc dung mạo người Tây Trúc (Ấn Độ), mũi cao, tóc quăn, râu quai nón gọi là đức Tổ Tây (Tổ Đạt Ma), chính danh của ngài là Bồ Đề Đạt Ma. Tương truyền Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28 của phái Thiền tông Ấn Độ sang Trung Quốc làm Sơ tổ, đã truyền đạo pháp và áo Cà sa cho Đệ tử là Huệ Khả làm Nhị tổ và ngài Tịch vào rằm tháng 10, năm Đại Thông thứ 2 (530), nhà Lương Trung Quốc.
6. Kiến trúc hành lang
Hành lang là hai dãy nhà dài ở hai bên chùa, đi thông vào Hậu đường, nơi đây mỗi bên được bài trí tượng của 9 vị La Hán. Như vậy là tượng của 18 vị La Hán được bài trí và bố cục ở nhà hành lang.
Tượng của các vị La Hán thường làm to, ngồi trên núi đá (Hay cạnh gốc cây ), có tâm trạng đang suy ngẫm, trầm tư,… Các chùa ở Việt Nam, Trung Quốc, Tây Tạng thường làm 18 vị La Hán, sách chỉ nói có 16 vị mà thôi. Sách Pháp trụ khí chép rằng: “16 vị La Hán vâng sắc lệnh của Phật ở lại Thế Gian mà Thủ Hộ Chính Pháp, đến nay vẫn còn chưa Nhập Diệt”… 16 vị La Hán ấy là:
1 .Tân Độ La Bạt Ra Nọa Xa Tôn giả ( Pindona Bharadvaja)
2 . Ca Nặc Ca Phạt Ca Tôn giả ( Kanakavatsa).
3 . Ca Nặc Ca Ba Lị Nọa Xa Tôn giả ( Ka na ka Bharadvaja).
4 . Tô Tần Đà Tôn giả (Suivinda).
5 . Nặc Cự Na Tôn giả (Nakula).
6 . Bạt Đà Tôn giả ( Bhadra).
7 . Ca Ri Ca Tôn giả ( Karika ).
8 . Phạt Xa La Phất Đa La Tôn giả (Vajravutra ).
9 . Thú Bác Ca Tôn giả (Svaka ).
10 . Bán Thác Ca Tôn giả (Panthaka ).
11 . Ra Hộ La Tôn giả ( Rahula ).
12 . Na Ka Tê Na Tôn giả ( Nagasena ).
13 . Nhân Kết Đà Tôn giả ( Ingata ).
14 . Phạt Na Bà Tư Tôn giả ( Vanavasin ).
15 . A Thị Đa Tôn giả (Ajita ).
16 Chú Đồ Bán Thác Ca Tôn giả (Cudapanthaka ).
Còn hai vị nữa ở Tây Tạng tương truyền là Ma ja Phu Nhân và Di Lặc.
7. Kiến trúc nhà thờ Mẫu
Hầu hết các chùa ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ đều có nhà thờ Mẫu trong khuôn viên phía sau cảnh chùa thờ Phật. Người xưa quan niệm: Thánh độ cho tín đồ May Mắn, Tài, Lộc, Sức Khỏe,… ngay trong lúc đang còn sống ở cõi Ta Bà này.
Phật thì độ cho linh hồn chúng sinh về cõi Tây phương cực lạc sau khi chết, do vậy từ xa xưa đa số tín đồ theo Phật cũng đồng thời là tín đồ theo Thánh Mẫu.
Nhà Mẫu là tòa nhà ở cuối dãy trong không gian chùa (Kể từ Tam quan trở vào). Nơi đây là không gian kiến trúc bài trí tượng thờ của tòa Tam phủ. Các tượng ở đây được bài trí như sau:
Lớp thứ nhất: Tượng Bồ tát Quán Thế Âm ( Hay tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn ).
Lớp thứ hai: Tượng Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế và hai vị Nam Tào, Bắc Đẩu.
Lớp thứ ba : Tượng ba vị Thánh Mẫu . Lớp thứ tư : Tượng Ngũ Vị Tôn Quan . Lớp thứ năm : Tượng Tứ Phủ Chầu Bà .
Lớp thứ sáu : Tượng Tứ Phủ Ông Hoàng (ông Hoàng Bơ, ông Hoàng bảy và ông Hoàng mười ) .
Lớp thứ bảy : Tượng Tứ Phủ Thánh Cô .
Hậu ban Công Đồng có tượng Ngũ Hổ . Hai bên là tượng hai Cậu Bé và Thanh Sà , Bạch Sà , lầu Cô, lầu Cậu ở hai bên phía trong (hoặc ngoài ) cửa .
Ngoài sân có Cây Hương thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên (Mẫu Thượng Thiên)
8. Những vấn đề đặt ra và một vài khuyến nghị
– Vấn đề bày tượng ngoài trời: Ngày xưa làng nào ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ cũng có một ngôi chùa, chùa là tài sản tinh thần và vật chất của dân làng, chùa to hay nhỏ đều do sự đóng góp của nhân dân, người dân rất tự hào về ngôi chùa của làng mình,… Chùa làng xưa là “Nhất tăng, nhất tự ”, sư dựa vào dân, dân dựa vào sư và đồng lòng cùng nhau tu hành Phật pháp, việc đời việc đạo song hành, cùng bảo vệ ngôi chùa của làng mình,… Chùa xưa nhỏ, đẹp, yên tĩnh, an bình,… đặt chân đến đất chùa là cám thấy có sự linh thiêng, tôn kính, an lành,… chùa xưa không bao giờ có tượng Phật/ Bồ tát/ La hán bày ở ngoài sân. Sau ngày 30/4/1975, miền nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, người dân thấy chùa làng minh có nhiều vị sư mặc áo màu vàng, không mặc áo màu nâu như ngày xưa nữa, và theo năm tháng cứ thấy chùa làng mình có nhiều tượng Phật, La hán, Bồ tát bằng đá trắng bày la liệt ngoài sân,… Lúc đầu thì thấy có một pho tượng Bồ tát Quán thế âm, bây giờ thì các vị A Di Đà, Quán thế âm Bồ tát, Đại thế chí Bồ tát, tượng 18 vị La hán,… Người đứng, người ngồi, người quay ngang, quay dọc, đang dơ tay bắt các thủ ấn (Mặc dù trong chùa vốn đã được yên vị bộ tượng A Di Đà, Quán thế âm và Đại thế chí rất cổ kính và đã có từ ngàn xưa rồi ),…
Các tượng tượng đá trắng này bày ngoài sân gây “hiệu quả động” làm mất đi sự an tĩnh trong lòng người, phá đi sự ổn định tâm, trước lúc vào chùa lễ Phật,…
Người dân không hiểu nhà sư bày tượng ra ngoài trời để “trang trí” hay “tôn thờ” các vị Phật? (Mà tôn thờ sao không đặt bát hương trước các pho tượng Phật, Bồ tát, La hán?), các cụ ngày xưa có tập quán bày tượng Phật ra sân đâu?
– Vấn đề bài trí tượng Phật và Bồ tát trên đầu ô tô trong tang lễ: Gần đây trong tang lễ ta thấy trên đầu ô tô có đặt bộ tượng “Tây phương tam thánh”. Đây là các pho tượng Phật A Di Đà, tượng Bồ tát quán thế âm và Bồ tát đại thế chí .Các vị Phật và Bồ tát này ở cõi Tây phương cực lạc kia mà, con người ta sau khi chết, linh hồn người chết sẽ được vị Thần coi trông bản mệnh đưa về “cõi âm”, nơi có “Thập điện Diêm vương và đức Địa tạng vương bồ tát, để tra xét công tội của linh hồn trong lúc sinh thời ở “ cõi trần gian” và được “Định nghiệp” theo nghiệp lực mà. Công việc “độ vong” lúc này là của đức Địa tạng vương bồ tát, đâu đã đến lúc linh hồn được Bồ tát quán thế âm và đại thế chí tiếp dẫn về “Cõi Tây phương cực lạc” của Đức Phật Adi Đà. Không hiểu nhà sư hay nhà tang lễ đã cho phép xếp đặt các pho tư tượng lên đầu ô tô này? (Chúng ta còn thấy họ dùng màu vàng, màu của nhà Phật trên ban thờ vong và y môm màu vàng thay cho màu trắng, đã phá đi tập quán ngàn đời dùng màu trắng trong tang lễ theo sách Thọ mai gia lễ của dân tộc.
– Vấn đề bài trí các tượng linh vật: Gần đây ta thấy ở cổng Tam quan nhiều chùa ở khu vực đồng bằng Bắc bộ có bày tượng sư tử Trung quốc bằng đá trắng. Đây là hình tượng linh vật trấn giữ ở các cơ sở thờ tự và các cơ sở kinh tế của người Trung hoa. Các pho tượng này được các nghệ nhân Việt Nam chế tác theo mẫu của các tượng sư tử Trung quốc. Do vậy nó mang hình tướng văn hóa Trung hoa, không hề có một chút bóng dáng nào của văn hóa Viêt Nam. Nhiều pho tượng này đã đươc các đại gia mua về dâng cúng nhà chùa, hoặc các nhà sư thỉnh về bài trí cảnh cảnh chùa. Hiện tượng này cần phải chấm dứt, để cho các ngôi chùa của chúng ta được thuần Việt.
Các vấn đề đặt ra trên đây, chúng tôi mong muốn những nhà quản lý văn hóa, quản lý di tích,các nhà sư,… và Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn quan tâm để các ngôi chùa của chúng ta đậm đà bản sắc dân tộc.
9. Kết luận
Kiến trúc chùa và tượng Phật trong các ngôi chùa Việt ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ là những di sản văn hóa rất quý của dân tộc, nó đã được sáng tạo, truyền giữ và bảo tồn từ ngàn đời nay trong nhân dân ta, mỗi một ngôi chùa là một bảo tàng kiến trúc, điêu khắc rất sống động, rất có giá trị, những giá trị di sản vô giá ấy cần được bảo vệ mãi mãi cho muôn đời sau. Chùa Việt – niềm tự hào của chúng ta .
Tài liệu tham khảo:
- Trần Trọng Kim (2001), Phật Lục, Nxb. Đà Nẵng
- Trần Trọng Kim (2002), Phật giáo, NXB Đà nẵng-2002.