1. Dẫn nhập
Hội An từng là thương cảng nổi tiếng bậc nhất Đàng Trong, cũng vì lý do đó, nơi đây được các nhà truyền giáo, tăng sĩ trong và ngoài nước đến truyền đạo tương đối sớm (thế kỷ XVI), quá trình này diễn ra liên tục cho đến giai đoạn cận – hiện đại. Ngày nay tại Hội An còn lưu lại một số di tích kiến trúc của các tôn giáo, đây là di sản của quá trình giao lưu văn hóa, tôn giáo của thương cảng Hội An. Trong số các di sản kiến trúc tôn giáo còn lại, kiến trúc Phật giáo có mật độ tương đối lớn và nổi bật hơn hết, thuộc nhiều trường phái khác nhau.
Trải qua thời gian và các biến động chính trị trong lịch sử, nhiều công trình kiến trúc của Phật giáo đã không còn nữa như chùa Di Đà, chùa Bảo (Bửu) Long, xáo trộn kiến trúc hoặc thay đổi mục đích sử dụng như chùa Thiên Đức (hiện nay chỉ mang tính cách chùa của gia tộc họ Đinh)… Vì khiếm khuyết tư liệu hoặc tư liệu có nhưng không liên tục, hơn nữa, sự hạn chế về dung lượng của một bài viết, do đó, chúng tôi tiến hành khảo sát kiến trúc các di tích hiện còn, đối sánh với tư liệu ít ỏi về kiến trúc (chủ yếu là ảnh chụp), mong muốn phác thảo một bức tranh toàn cảnh về kiến trúc Phật giáo hiện nay ở Hội An.
Kiến trúc là một trong những nét văn hóa đặc trưng của các tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều có những quy định, phong cách kiến trúc đặc trưng, dựa vào những nét đặc thù đó, ta có thể nhận diện được công trình kiến trúc đó thuộc về tôn giáo hay hệ phái của tôn giáo nào. Kiến trúc Phật giáo cũng không ngoại lệ. Phật giáo có nhiều hệ phái với tôn chỉ, nghi lễ và nếp tu tập sinh hoạt riêng, do đó kiến trúc cũng cần thể hiện được tính đặc thù của mỗi hệ phái. Chùa hay thiền tự, tịnh xá thuộc hệ phái nào đi nữa thì cũng phải mang những nét đặc trưng của kiến trúc Phật giáo, thể hiện giáo lý của đạo Phật là tính giản dị, từ bi, đại chúng và bình đẳng. Chùa lấy chính điện làm trung tâm (nghệ thuật kiến trúc chủ yếu tập trung ở đây), thường có hình thức đối xứng trên mặt đứng và mặt bằng, tổng thể kiến trúc hòa hợp với cảnh quan thiên nhiên. Chùa là nơi sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng (không chỉ riêng đạo Phật) của cộng đồng dân cư bản địa, do đó cần có hình thức biểu hiện phù hợp để khi bước vào, ai cũng có thể cảm nhận được sự trang nghiêm thanh tịnh, an lạc, như trút bỏ được mọi phiền não.
Hiện nay ở Hội An, các loại hình kiến trúc Phật giáo khá phong phú, đa dạng: chùa, thiền tự (hệ phái Bắc tông), chùa (hệ phái Nam tông), tịnh xá (hệ phái Khất sĩ), Phật đường (Minh sư đạo). Trong đó, một số ngôi chùa có giá trị cao về mặt kiến trúc nghệ thuật và lịch sử như chùa Hải Tạng (xã Tân Hiệp), chùa Viên Giác (phường Cẩm Phô), chùa Chúc Thánh (phường Tân An)… Các thành tựu nghiên cứu hiện nay đều thống nhất cho rằng Phật giáo Bắc tông được du nhập vào Hội An tương đối sớm, cụ thể là dòng Lâm Tế Chúc Thánh vào khoảng thế kỷ 18 với các tổ đình Chúc Thánh, Phước Lâm, Vạn Đức. Vào giai đoạn Đàng Trong – Đàng Ngoài (1558 – 1778): “… tại Đàng Trong, các chúa Nguyễn chiêu hiền đãi sĩ, mở rộng giao thương nên chính trị ổn định, kinh tế phát triển. Đây là một yếu tố quan trọng để Phật giáo dễ dàng hội nhập và phát triển. Các thiền sư đến Hội An tu tập và hoằng truyền giáo pháp như: Minh Châu Hương Hải, Thạch Liêm Đại Sán, Minh Hải Pháp Bảo, Minh Lượng Thành Đẳng… Sự kiện nổi bật nhất là thiền sư Thạch Liêm Đại Sán mở giới đàn tại chùa Di Đà vào ngày mồng 7 tháng 7 năm Ất Hợi (1695) cho hơn 300 tăng tục thọ giới” 321 (chùa Di Đà đã bị hủy hoại từ lâu đời). Dựa theo các nguồn tư liệu, ngôi chùa được thành lập sớm nhất ở Hội An là Minh Hương Phật tự (1653), chùa Chúc Thánh là vào khoảng đầu thế kỷ 18. Trong khi đó, mãi đến nửa sau thế kỷ 20, tại Hội An mới có sự hiện diện của hệ phái Khất sĩ và Nam tông.
Theo thống kê, Hội An hiện có 25 ngôi chùa, trong đó có 19 ngôi thuộc hệ phái Bắc tông, 04 ngôi thuộc hệ phái Khất sĩ, 01 ngôi thuộc hệ phái Nam tông và 01 ngôi thuộc Minh Sư đạo.
2. Kiến trúc chùa Bắc tông
Hầu hết các ngôi chùa thuộc hệ phái Bắc tông ở Hội An đều thuộc Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh322. Thiền phái này ra đời đầu thế kỷ 18, gắn với sự kiện Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo323 đời 34 dòng Lâm Tế khai sơn chùa Chúc Thánh ở Hội An, sau đó nhanh chóng được truyền bá rộng rãi tại các tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam. So với các ngôi chùa khác thuộc hệ phái Bắc tông ở Hội An nói riêng và Quảng Nam nói chung, chùa thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh chỉ khác về mặt tông phái, xét về mặt kiến trúc thì hoàn toàn tương đồng.
Như đã nói trên, thực chất, khi tiến hành xây dựng các ngôi chùa, việc lập hướng rất quan trọng, hướng của các ngôi chùa tùy theo vị sư chủ trì việc xây dựng lựa chọn. Trên thực tế, nhiều ngôi chùa có mặt tiền xoay về hướng Nam, giúp mang đến sự mát mẻ về mùa hè và ấm áp về mùa đông, lại giảm thiểu được sự ảnh hưởng của gió bão. Nét tương đồng về kiến trúc tổng thể các ngôi chùa: phía trước là tam quan, kế đến là khoảng sân vườn rộng với nhiều hoa, cây cảnh, tượng Quan Âm (đặt chính giữa, phía bên trái hay bên phải tùy vào khuôn viên), cây bồ đề324 ở một góc sân; chính điện nằm ở trục giữa khu đất, hơi lùi về phía sau. Tùy theo quy mô, tính chất công trình mà nhà Tổ, giảng đường, trai đường, các khu phụ trợ (bếp, vệ sinh…) bố trí hai bên chính điện và ở phía sau. Hoa văn trang trí, chi tiết trang trí đuôi mái, bờ nóc bờ chảy đều có liên quan đến điển tích Phật giáo như bánh xe pháp luân325, chữ vạn326, hoa sen327… Các khối công trình, chi tiết trang trí có tính chất đối xứng để tạo sự tôn nghiêm. Ở Hội An hiện nay còn có hai chùa có bình phong phía trước chính điện là chùa Chúc Thánh và Phước Lâm, phía cuối khuôn viên có gò đất nhỏ (rừng cây) nhằm cải tạo phong thủy, tạo sự chỉnh chu trong bố cục tổng thể.
Do lấy chính điện làm trung tâm của toàn bộ công trình nên chính điện có diện tích lớn nhất, nền cao nhất và công trình cao nhất so với các hạng mục còn lại. Chính điện thường có kiểu thức 3 gian, 3 gian 2 chái (hoặc 5 gian như chùa Chúc Thánh trước đây) với kết cấu nhà rường gỗ (các cấu kiện gỗ ít nhiều đều có chạm trổ) hoặc bê tông sơn phết giả gỗ, mái lợp ngói âm dương. Gian chính giữa rộng hơn hai gian bên. Phía trước có hiên rộng với bàn thờ Hộ pháp, hai bên hiên là lầu chuông, trống. Hệ mái chính điện lớn nên thường được chia làm hai nếp mái. Nếp trước là nơi hành lễ. Nếp sau là nơi thờ Phật, Bồ Tát, thờ Tổ nên đỉnh (k biết tác giả dùng từ này có đúng k) được làm cao hơn so với nếp trước, bờ nóc thường trang trí đồ án lưỡng long chầu bánh xe pháp luân328 hoặc lưỡng long tranh châu.
Cách thờ tự theo truyền thống trong chùa Bắc tông là “tiền Phật hậu Tổ”, hai bên thờ Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền hoặc Bồ Tát Quan Âm và Bồ Tát Địa Tạng, ở một số chùa còn có tượng Thập Bát La Hán. Ngoài hệ thống thờ tự với nhiều tượng thờ, khám thờ, bên trong chính điện còn được trang trí nhiều hoành phi, liễn đối, tranh vẽ về cuộc đời đức Phật. Tất cả tạo nên không gian nội thất hài hòa, tinh tế và tôn nghiêm. Trong các ngôi chùa ở miền Trung nói chung và Hội An, Quảng Nam nói riêng, việc thờ Tổ được chú trọng hơn. Nhà Tổ (Tổ đường, tùy vào quy mô và khuôn viên mà có chùa có hoặc không có hạng mục này) nằm phía sau, cùng trục giữa với chính điện, ngăn cách bằng một khoảng sân trang trí bằng nhiều cây cảnh. Nhà Tổ có quy mô nhỏ hơn, thường chỉ một nếp nhà, dùng làm nơi thờ tự chư vị Tổ sư, khai sơn, trụ trì, tăng chúng viên tịch và chư vị hương linh nam, nữ Phật tử . Hai chái có thể ngăn phòng để làm phòng sinh hoạt.
Với các ngôi chùa cổ, góc giao mái không có đầu đao cong vút lên như chùa ngoài Bắc (do đặc thù kết cấu hệ khung gỗ và vật liệu lợp mái). Chùa ở Quảng Nam nói chung và Hội An nói riêng, các hàng ngói ở gần góc giao mái được chồng dày hơn để tạo đường cong rất nhẹ, cùng với bờ chảy được xây cong, kết hợp chi tiết trang trí đuôi mái tạo sự mềm mại, uyển chuyển cho cả hệ mái. Với các ngôi chùa sử dụng vật liệu mới (bê tông cốt thép), góc giao mái thường được tạo dáng uốn cong vừa phải.
Không giống như chùa cổ ở Huế thường có mặt bằng chữ 口(Khẩu), chùa cổ Hội An (như Chúc Thánh, Phước Lâm) thường có mặt bằng chữ 門 (Môn) do Đông phương trượng, Tây phương trượng được xây tiến về phía trước so với chính điện; có hành lang (khép kín) nối kết ba khối công trình này. Đông phương trượng là nơi ở của Trụ trì và tiếp khách, Tây phương trượng là nơi ở, tu học của Tăng chúng. Chính điện không có hành lang bao quanh. Giữa chính điện và nhà Tổ là khoảng sân nhỏ trồng cây cảnh. Ngoài ra còn có Đông đường, Tây đường (nhà Đông, nhà Tây) xây tiếp nối Đông phương trượng, Tây phương trượng dùng làm nơi ở, trai đường và thờ linh. Các khối phụ trợ khác (bếp, vệ sinh) nằm phía sau. Hiện nay, hầu hết các ngôi chùa cổ đều được tôn tạo nên bố cục tổng thể có nhiều thay đổi, chính điện được làm có hành lang bao quanh. Chùa Chúc Thánh cơ bản vẫn còn giữ được bố cục công năng như trước đây nhưng không gian được “mở” thông thoáng, không còn “khép kín” nữa.
Sân vườn là một bộ phận không thể tách rời của các ngôi chùa thuộc Bắc tông, góp phần tô điểm, làm tôn giá trị kiến trúc của ngôi chùa. Các khu vực sân vườn vừa là không gian trồng các loại cây cảnh đồng thời với một số chùa, nó cũng là nơi canh tác hoa màu cung cấp thực phẩm cho tăng, chúng. Các ngôi chùa thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh như Vạn Đức, Phước Lâm, Chúc Thánh… là những ngôi chùa cổ của Hội An, lúc tạo lập, các ngôi chùa này hầu hết đều nằm cách xa trung tâm hành chính, dân cư, đây cũng là lý do các ngôi chùa này đều có sân vườn rộng rãi.
Một điểm đặc biệt cần lưu ý nữa là trong khuôn viên các ngôi chùa cổ thường có miếu thờ Ngũ Hành Tiên nương như ở chùa Phước Lâm, Chúc Thánh, Vạn Đức, Hải Tạng và Thiên Đức Tự; hoặc trong hệ thống thờ tự một số ít chùa có phối thờ Quan Thánh Đế Quân. Chưa có lý giải cụ thể cho hiện tượng này, tuy nhiên, theo quan điểm của người viết, đây là biểu hiện rõ nét của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên329. , còn nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tín ngưỡng đa dạng của người dân,.
Trong số chùa thuộc hệ phái Bắc tông, thiền tự Bảo Châu có nhiều nét khác biệt về kiến trúc tổng thể so với các ngôi chùa còn lại do việc hành thiền được chú trọng hơn. Có thể chia thiền tự thành 2 khu vực, gọi nôm na là khu chung và khu riêng (nội viện). Về cơ bản, khu chung nằm ở phía trước, phục vụ nhu cầu tu tập, hành thiền của nhiều người, ngoài chính điện và các khối phụ trợ còn có thêm không gian phục vụ cho việc thiền định (không gian mở nằm sau chính điện, là nếp nhà có mái che). Khu riêng nằm biệt lập ở phía sau, phục vụ nhu cầu nhập thất thiền định của một số ít người, có tường rào cổng ngõ để hạn chế sự ra vào đông đúc, giữ gìn sự yên tĩnh cần thiết. Bên trong khu vực này có xây các thiền thất, mỗi thất có quy mô vừa phải, đảm bảo phục vụ cho nhu cầu thiền định, sinh hoạt tối thiểu của một người. Bao quanh các thất là không gian sân vườn xanh mát. Tùy vào sở nguyện, mỗi người có thể nhập thất để tu tập thiền định từ vài ngày đến vài tuần, vài tháng, thậm chí một vài năm. Hàng ngày sẽ có người đảm nhận nhiệm vụ “tiếp thực” phục vụ, hỗ trợ cho những người nhập thất. ( Trong phần này, tác giả đã thống kê số lượng chùa Bắc tông là 19. Tác giả đã miêu tả rất rõ ràng từng chi tiết cấu trúc và đặc điểm như một ngôi chùa hơn là 19 ngôi chùa, có thể đồng tình những gì tác giả trình bày là điểm chung, nhưng còn những điểm khác biệt thì sao? Bên cạnh đó, chùa nào có kiến trúc như trình bày có từ xưa hiện nay còn, chùa nào mới được xây có kiến trúc như vậy! nếu có thể chi tiết phân các nhóm chùa trong phần chùa Bắc tông thì sẽ thuyết phục hơn)
3. Kiến trúc chùa Nam tông (Theravāda)
Phật giáo Nam tông người Kinh330 (còn gọi là Phật giáo Nam tông Kinh) du nhập vào Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 1930, có mặt đầu tiên tại Sài Gòn, sau đó lan truyền đến các địa phương khác, thịnh hành ở vùng Nam Trung Bộ. Ở Hội An chỉ có duy nhất một ngôi chùa thuộc hệ phái này, đó là Nam Quang Tự, tạo lập năm 1969. Chùa cũng lấy chính điện làm trung tâm, bao quanh là các khối phụ trợ có cùng mô tuýp trang trí với chính điện với gam màu vàng (và vàng nâu) nổi bật. Tuy nhiên, chùa có kiểu thức kiến trúc mang nhiều nét khác biệt so với chùa hệ phái Bắc tông. Chính điện có chiều dài xấp xỉ gấp 2 lần chiều rộng, mặt bằng có xu hướng dàn trải theo chiều dọc (trong khi chính điện chùa Bắc tông có xu hướng dàn trải theo chiều ngang), có hành lang bao quanh chính điện (bắt buộc). Chính điện có các cấp mái, mỗi cấp mái được chia làm ba lớp. Phía sau chính điện có tháp xây cao thờ xá lợi, hệ mái cũng có ba lớp, tượng trưng cho Tam bảo (Phật – Pháp – Tăng), đỉnh tháp được tạo hình stupa (phù đồ, hay tháp xá lợi). Các góc bờ nóc đều được trang trí hình tượng chim thần. Trên mái còn trang trí các dải họa tiết dạng stupa.
Không gian nội thất chính điện hoàn toàn thông thoáng, không có hệ khung cột gây cản trở tầm nhìn. Bên trong chính điện chỉ thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni331 (với nhiều hình tướng: Đức Phật sơ sinh, Phật thành đạo…), được đặt trên bệ thờ sơn nhụ vàng với nhiều gờ chỉ, họa tiết trang trí đẹp mắt và tôn nghiêm, ngoài ra không có đối tượng thờ tự nào khác. Bên cạnh các tượng Phật còn có các tháp xá lợi nhỏ được đặt trang trọng trong lồng kính.
Điểm đặc biệt trong kiến trúc chùa Nam Quang (không tìm thấy ở chùa hệ phái Bắc tông hoặc tịnh xá) là ở các cạnh xung quanh chính điện đều có các trụ bia kiết giới Sima (có dạng hình tháp), gắn liền với lễ kiết giới Sima. Lễ này diễn ra khi một ngôi chùa vừa xây xong hoặc đại trùng tu chính điện, thường kéo dài 3 ngày 3 đêm liên tục.
4. Kiến trúc tịnh xá hệ phái Khất sĩ
Tịnh xá là nơi tu tập của của các chư tăng, ni thuộc hệ phái Khất sĩ. Hệ phái do Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập gọi là “Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam”, xuất hiện năm 1943 ở Nam bộ, đến nay rất phát triển ở khu vực miền Trung và Nam bộ. Đạo Phật Khất sĩ truyền thừa đến Hội An khoảng năm 1956, các tịnh xá đều được xây dựng sau khoảng thời gian này và liên tục được tôn tạo hoặc tháo dỡ – xây mới, do đó, giá trị nghệ thuật kiến trúc truyền thống của các tịnh xá này không cao. Có thể kể đến: tịnh xá Ngọc Cẩm do Hòa thượng Thích Giác Lý khai sơn năm 1958; tịnh xá Ngọc Châu do Ni trưởng Thích Nữ Đức Liên khai sơn năm 1959; tịnh xá Ngọc Truyền do Đại đức Thích Giác Công khai sơn năm 1970; tịnh xá Ngọc Hương do chư tăng hệ phái Khất sĩ khai sơn năm 1970332. Tên gọi tịnh xá luôn bắt đầu bằng chữ “Ngọc”.
Ngoài những điểm tương đồng trên bố cục tổng thể so với chùa hệ phái Bắc tông, kiến trúc tịnh xá cũng có nhiều điểm khác biệt rất dễ nhận biết. Về hình thức kiến trúc bên ngoài: tùy vào quy mô công trình mà chính điện có thể có một hoặc hai tầng, có hành lang bao bọc xung quanh hay không, tuy nhiên, một điều bắt buộc phải tuân thủ là mái cao nhất phải là hệ mái chóp tứ giác (4 mái dốc), tượng trưng cho Tứ diệu đế333. Ngay bên dưới là hệ mái bát giác (8 mái dốc) tương ứng với phần nhà có hình bát giác, tượng trưng cho thuyền Bát Nhã334, có quan niệm khác cho rằng phần nhà này tượng trưng cho Bát chánh đạo335. Theo hình thức kiến trúc ban đầu, tịnh xá chỉ có khối nhà bát giác và mái chóp tứ giác bên trên, không có lầu chuông, trống. Các tịnh xá về sau cũng được xây dựng theo hình thức này. Do nhu cầu sử dụng, có thể xây thêm lầu chuông riêng biệt như tịnh xá Ngọc Hương chẳng hạn; ở tịnh xá Ngọc Truyền cũng có đại hồng chung.
Bên trong chính điện có 04 cột chính đỡ phần mái chóp tứ giác như đã đề cập bên trên (thông thường, bốn cột này nằm ở khu vực trung tâm mặt bằng chính điện). Bốn cột này tượng trưng cho Tứ chúng336. Với chính điện hai tầng như tịnh xá Ngọc Cẩm và Ngọc Truyền, nơi thờ Phật đặt ở tầng 2. Bên trong chính điện chỉ thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni337, giống với hình thức thờ tự trong chùa Phật giáo Nam tông. Điểm khác biệt với Phật giáo Nam tông là ở cách tôn tượng. Ở tịnh xá, bàn thờ Phật được đặt ngay chính giữa 4 cột chính. Bệ thờ được xây làm ba cấp, tượng trưng cho Giới – Định – Tuệ, nhỏ dần về bên trên. Cấp trên cùng đặt tượng thờ. Tượng đặt trong một tháp bằng gỗ, trên cùng tháp thường làm 13 tầng, tượng trưng cho 13 cõi (13 lớp tiến hoá)338, có thể thấy tháp này ở tịnh xá Ngọc Châu. Tuy nhiên, vì lý do nào đó mà ta không thấy tháp này ở tịnh xá Ngọc Truyền, Ngọc Hương hay Ngọc Cẩm. Phía sau khu vực thờ Phật có bàn thờ Tổ sư Minh Đăng Quang (đặt chính giữa), đức Tăng trưởng339 và các vị sư trụ trì, chư tăng/ni tu tập tại tịnh xá đã viên tịch. Bên trong chính điện tịnh xá Ngọc Truyền còn trang trí biểu tượng “ngọn đèn chân lý” do Tổ sư Minh Đăng Quang phác họa, là hình ảnh một đóa sen vươn lên từ bùn lầy, trên hoa sen là ngọn đèn (trí tuệ) tỏa sáng khắp bốn phương tám hướng.
Tuy không được thờ bên trong chính điện, nhưng trước mỗi tịnh xá ở Hội An đều có Quan Âm các hoặc tôn tượng Quan Âm. Đây là hạng mục không bắt buộc phải có ở tịnh xá (có hay không cũng đều được cả). Vẫn chưa rõ vì sao lại có Quan Âm các phía trước chính điện, tuy nhiên, theo quan điểm của người viết, có lẽ đây là biểu hiện của sự “tiếp biến” văn hóa trong tôn giáo. Bởi hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát đã quá đỗi quen thuộc, ăn sâu vào tâm thức của các Phật tử, nhất là ở những nơi có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo Bắc tông, nên trong quá trình truyền thừa đến miền Trung (Quảng Nam nói riêng), hệ phái Khất sĩ cũng phải có những điều chỉnh phù hợp, tôn tượng Quan Âm phía trước là một cách để thu hút các Phật tử đến tu tập tại tịnh xá. Cũng xin nói thêm, pháp phục của hệ phái Khất Sĩ tương đồng với pháp phục của Phật giáo hệ phái Nam tông, đối tượng thờ tự cũng tương đồng, do đó, nhiều người vẫn nhầm lẫn rằng hệ phái Khất sĩ thuộc Phật giáo Nam tông.
Ngoài 3 hệ phái Phật giáo kể trên, ở Hội An còn có một di tích có liên quan đến Phật giáo, đó là Nam Tôn Phật đường do tín đồ đạo Minh sư xây dựng vào năm 1936. Bố cục tổng thể gồm: Tam quan; Quan Âm các; nhà bia có 3 tấm bia đá chữ Hán, ghi lại sự tích thành lập Phật đường và ghi công đức các vị có công xây dựng; chính điện ở trung tâm; các công trình phụ trợ khác gồm nhà tăng, trai đường, phòng tiếp khách, phòng trụ trì. Chính điện kết cấu theo kiểu tiền đường hậu tẩm với hệ khung gỗ chịu lực. Hình thức kiến trúc, họa tiết trang trí có nhiều nét tương đồng kiến trúc Phật giáo hệ phái Bắc tông, điểm khác biệt lớn nhất là ở hệ thống thờ tự. Chính điện Phật đường thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế là đấng sinh thành vạn vật, vạn sự và Diêu Trì Kim Mẫu, Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Thái Thượng Lão Quân, Hộ pháp, Thổ địa, Thành hoàng. Đặc biệt, giữa án thờ chính có đặt một vòng tròn vàng gắn một cái đèn lưu ly tượng trưng cho ánh sáng của vũ trụ. Ngọn đèn này luôn được thắp sáng. (Trong 3 kiến trúc tiêu biểu này nếu có minh họa sơ đồ sẽ rõ hơn sự khác biệt)
5. Tạm kết
Hội An có lịch sử xây dựng, kiến trúc Phật giáo lâu đời và liên tục, để lại nhiều giá trị. Trải qua thời gian dài, dưới các tác động của thời tiết, côn trùng phá hoại và cả con người, di sản này đã và đang đứng trước sự đe dọa mai một, mất mát. Sự gia tăng về số lượng Phật tử của các chùa dẫn đến nhu cầu về không gian thực hành tín ngưỡng, tôn giáo tăng. Nhiều chùa chiền, tịnh xá… được tu bổ, tôn tạo hoặc xây mới để đáp ứng nhu cầu này, tuy vẫn kế thừa và phát huy các đặc điểm kiến trúc truyền thống của địa phương nhưng mật độ xây dựng tăng lên ít nhiều gây ảnh hưởng đến không gian và cảnh quan chùa, nhất là với các ngôi chùa cổ… May mắn thay, một số ngôi chùa hệ phái Bắc tông được bảo tồn khá tốt như chính điện chùa Hải Tạng, bảo lưu được các hạng mục kiến trúc cũ có giá trị như tam quan chùa Chúc Thánh, chùa Phước Lâm, hoặc tôn tạo chùa gỗ kiểu chùa truyền thống Quảng Nam mang giá trị mỹ thuật cao như chùa Viên Giác… Các di tích kiến trúc Phật giáo này là một bộ phận quan trọng cấu thành Di sản văn hóa thế giới – Đô thị cổ Hội An, là nơi Phật tử tìm đến để tìm cầu sự thảnh thơi, an lạc, là điểm chiêm bái, tham quan thú vị cho du khách gần xa.
_Chú thích:
321. Đại đức Thích Như Tịnh (2018), Chuyên đề Phật giáo Hội An, Đề tài nghiên cứu biên soạn Địa chí Hội An, Trung tâm QLBT DSVH Hội An.
322. Theo Phạm Phước Tịnh (2014), Phiếu kiểm kê bước đầu về Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Hội An, hiện nay tại Hội An có 12 ngôi chùa thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh, đó là: Chúc Thánh, Vạn Đức, Phước Lâm, Viên Giác, Hải Tạng, Long Tuyền, Minh Giác (chùa Phật Cẩm Hà cũ), Bảo Thắng, Pháp Bảo, Kim Bửu, Long Thọ, thiền tự Bảo Châu. Các ngôi chùa còn lại thuộc hệ phái Bắc tông: Cẩm Giác, Long An, An Lạc, Phước An, Cẩm Thanh, Phổ Triêm, Hội Nguyên. Ngoài ra, còn có hai di tích Phật giáo Bắc tông khác: Minh Hương Phật tự (chùa Quan Âm), chùa Ông Tạng (Thiên Đức tự/ Nhà thờ tộc Đinh).
323. Thiền sư Minh Hải (1670 – 1746): tục danh Lương Thế Ân, tự Đắc Trí, hiệu Pháp Bảo, quê ở Đồng An, tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc. Vào những năm 1696 – 1697, Ngài đến xã Thuận An, huyện Tân Phước, phủ Điện Bàn (địa danh này vào thời các Chúa Nguyễn; đến thời nhà Nguyễn thuộc xã Cẩm Phô và Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn và nay thuộc phường Tân An, thành phố Hội An) để hành đạo. Ngài ban đầu chỉ lập thảo am để tu tập, sau đó lập chùa, đặt hiệu là “Chúc Thánh tự”.
324. Bồ đề (tên khoa học: Ficus religiosa) là một loài cây thuộc chi Đa đề (Ficus) có nguồn gốc ở Ấn Độ, tây nam Trung Quốc và Đông Dương về phía đông tới Việt Nam. Theo các điển tích Phật giáo, thái tử Tất Đạt Đa đã tọa thiền và chứng đắc giác ngộ thành Phật dưới cội cây này. Về sau, người ta lấy cây này biểu trưng cho cây của sự giác ngộ, nên Bồ đề có nghĩa là Giác ngộ. Với ý nghĩa đó, hầu như chùa nào cũng có trồng cây bồ đề ở sân trước.
325. Pháp luân có ba ý nghĩa chính: Phật pháp như chiếc xe chiến trận phá tan mọi nghi ngờ, trở ngại, nghiệp chướng, khổ đau của chúng sinh; Phật pháp như bánh xe quay tròn, triển chuyển mãi không ngừng ở một người nào, một nơi nào; Phật pháp như bánh xe tròn, đầy đủ, trọn vẹn. Bánh xe Pháp được vẽ hình tròn trong có 6, 8 hoặc 12 gọng. Số 6 tượng trưng cho Lục đạo, số 8 tượng trưng cho Bát chánh đạo, số 12 tượng trưng cho Mười hai nhân duyên.
326. Chữ vạn (swastika) xuất phát từ tiếng Phạn có nghĩa là “có lợi cho hạnh phúc” hoặc “tốt lành”. Trong Phật giáo, nó tượng trưng cho dấu chân tốt lành của Đức Phật.
327. Hoa sen trong Phật giáo là biểu tượng của sự thuần khiết, vô nhiễm (gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn). Ngoài ra, sen còn mang nhiều ý nghĩa biểu trưng khác.
328. Rồng là con vật đứng đầu trong Tứ linh và có sức mạnh biến hóa nên từ vua đến thứ dân đều tôn thờ. Chùa, đình… nơi mà Phật, Thần ngự trị thì rồng là biểu tượng hộ pháp. Ở đình, bờ nóc thường trang trí lưỡng long tranh châu hay chầu châu, châu là biểu tượng âm dương vũ trụ. Ở chùa, bờ nóc trang trí rồng chầu (hoặc tranh) bánh xe chuyển pháp mang ý nghĩa mong muốn giá trị lời Phật dạy từ bi hỉ xả được lưu giữ mãi trong ngôi nhà tâm linh của mọi chúng sinh.
329. Tam giáo gồm Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Đây là tư tưởng rường cột của nhà nước phong kiến qua nhiều triều đại và có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tôn giáo tín ngưỡng của người dân, trong đó Nho giáo là hệ tư tưởng dùng để quản lý xã hội, Phật giáo và Đạo giáo có ảnh hưởng nhất định trong các tầng lớp dân cư. Vào thời Lý, Trần, Phật giáo được xem là quốc giáo.
330. Phật giáo Nam tông có hai hệ phái chính: Phật giáo Nam tông Khmer và Phật giáo Nam tông người Kinh
331. Theo Phật giáo Nam Tông, ngoài đức Phật Thích Ca thì không có một vị Phật nào khác. Do đó, trong chính điện chỉ thờ một hình tượng Phật Thích Ca.
332. Dẫn theo Đại đức Thích Như Tịnh, tư liệu đã dẫn.
333. Tứ diệu đế: cũng gọi là Tứ thánh đế. Bốn chân lý cao cả, là gốc cơ bản của giáo pháp đạo Phật. Bốn chân lý đó là: 1. Khổ đế, chân lý về sự Khổ; 2. Tập khổ đế, chân lý về sự phát sinh của khổ; 3. Diệt khổ đế, chân lý về diệt khổ; 4. Ðạo đế, chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ.
334. (Theo nhà nghiên cứu An Chi) Thuyền Bát nhã: là một ẩn dụ dùng để chỉ sự cứu độ chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ của cõi đời, ẩn dụ này bắt nguồn ở tiếng Sanskrit: prajñā-pāramitā mà người Trung Hoa đã phiên âm thành Bát nhã ba la mật đa. Prajñā (bát nhã) có nghĩa là trí tuệ, sự sáng suốt, còn pāramitā (ba la mật đa) là sự hoàn thiện, sự tuyệt hảo. Vậy prajñā-pāramitā là sự hoàn thiện trong nhận thức; hiểu theo kinh điển Phật giáo thì đó là sự giác ngộ cao độ, cực điểm. Pāra có nghĩa là cực điểm, là giới hạn cuối cùng nhưng cũng còn có nghĩa là bờ bên kia, là phía đối diện nên bên Trung Hoa mới có người dịch pāramitā là “đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia) rồi phân tích rằng pāra là “bỉ ngạn” còn mitā là “đáo”.
335. Bát chánh đạo: là con đường tám nhánh giải thoát khỏi Khổ, là chân lí cuối cùng của Tứ diệu đế. Bát chính đạo bao gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
336. Tứ chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc (người Phật tử nam), ưu bà di (người Phật tử nữ).
337. Theo quan niệm của hệ phái Khất sĩ, hiện tại giáo chủ cảnh giới ta bà là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hóa độ nên chỉ thờ Đức Phật Thích Ca mà thôi.
338. 1 – Địa ngục, 2 – Ngạ quỷ, 3 – Súc sanh, 4 – A tu la, 5 – Người, 6 – Trời, 7 – Tu đà hoàn, 8 – Tư đà hàm, 9 – A na hàm, 10 – A la Hán, 11 – Bích Chi Phật, 12 – Bồ tát, 13 – Phật.
339. Hệ phái Khất sĩ có 6 giáo đoàn tăng, mỗi giáo đoàn đều có đức Thầy hay đức Tăng trưởng riêng cho giáo đoàn đó.
Tài liệu tham khảo:
- Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An (2015), Di tích – Danh thắng Hội An, Nxb Đà Nẵng.
- Lý lịch các di tích tôn giáo trên địa bàn Thành phố – Hồ sơ lưu của Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An.
- Đại đức Thích Như Tịnh (2018), Chuyên đề Phật giáo Hội An, Đề tài nghiên cứu biên soạn Địa chí Hội An, Trung tâm QLBT DSVH Hội An.
- Phạm Phước Tịnh (2014), Phiếu kiểm kê bước đầu về Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Hội An, Trung tâm QLBT DSVH Hội An.
- Website: nigioikhatsi.net
- Trang facebook Tìm hiểu về đạo Phật Khất sĩ ở Việt Nam.
- Một số chú thích trong bài viết được tham khảo, trích lược từ các website: tapchivanhoaphatgiao.com, wikipedia.org, bachkhoatrithuc.vn, chualinhbuu.com và các website khác