1. Bài trí tượng cơ bản trên Tam bảo hiện nay
1.1. Ban Tam bảo 5 lớp tượng
– Lớp thứ nhất trên cùng là bộ tượng Tam Thế (có ý nghĩa là Quá khứ ở giữa, Hiện tại bên trái, Vị lai bên phải). Bộ tượng này cũng tương ứng với Phật A Di Đà, Phật Thích Ca và Phật Di Lặc.
– Lớp tượng thứ hai dưới lớp tượng Tam Thế là bộ tượng Tây Phương Tam Thánh gồm A Di Đà ở giữa, Quan Thế Âm bên trái, Đại Thế Chí bên phải.
– Lớp tượng thứ ba đặt tượng Thích Ca Niêm Hoa/Thích Ca Thuyết Pháp ở giữa, bên trái là Ca Diếp, bên phải là A Nan Đà.
– Lớp tượng thứ tư là bộ tượng Ngọc Hoàng, trái là Nam Tào, phải là Bắc Đẩu.
– Lớp tượng thứ năm thấp nhất đặt tòa Cửu Long trong có tượng Thích Ca Sơ Sinh, bên trái là tượng Đế Thích, bên phải là tượng Phạm Thiên.
Một số chùa ở lớp tượng thứ ba thay bằng bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, ở giữa là tượng Thích Ca Niêm Hoa, bên trái là tượng Phổ Hiền Bồ Tát, bên phải là tượng Văn Thù Bồ Tát. Đôi khi cũng có chùa đặt tượng Phổ Hiền và Văn Thù ở hai bên tòa Cửu Long. Ngoài ra ở một số vùng như Ninh Bình còn thấy phổ biến đặt tượng Giám Trai và Thổ Địa ở hai bên tòa Cửu Long.
1.2. Ban Tam bảo 7 lớp tượng (tính từ trên xuống)
– Lớp thứ nhất trên cùng là bộ tượng Tam Thế.
– Lớp tượng thứ hai dưới lớp tượng Tam Thế là bộ tượng Tây Phương Tam Thánh gồm A Di Đà ở giữa, Quan Thế Âm bên trái, Đại Thế Chí bên phải.
– Lớp tượng thứ ba là bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, ở giữa là tượng Thích Ca Niêm Hoa, bên trái là tượng Phổ Hiền Bồ Tát, bên phải là tượng Văn Thù Bồ Tát.
– Lớp tượng thứ tư đặt tượng Tuyết Sơn ở giữa, tượng Ca Diếp bên trái, tượng A Nan Đà bên phải.
– Lớp tượng thứ năm là bộ Di Lặc Tam Tôn, tượng Di Lặc ở giữa, bên trái là tượng Pháp Hoa Lâm, bên phải là tượng Đại Diệu Tường.
– Lớp tượng thứ sáu là bộ tượng Ngọc Hoàng, trái là Nam Tào, phải là Bắc Đẩu.
– Lớp tượng thứ bẩy thấp nhất đặt tòa Cửu Long trong có tượng Thích Ca Sơ Sinh, bên trái là tượng Đế Thích, bên phải là tượng Phạm Thiên.
Với ban Tam Bảo 7 lớp tượng, sự tùy biến cũng nhiều hơn. Lớp thứ tư được thay bằng bộ tượng Đông Phương Tam Thánh, ở giữa là tượng Dược Sư, bên trái là Nhật Quang Bồ Tát, bên phải là Nguyệt Quang Bồ Tát. Lớp tượng thứ năm đặt tượng Quan Âm nhiều tay ở giữa, bên trái là Vương Phụ, bên phải là Vương Mẫu.
Ngoài ra còn có chùa đặt bộ tượng Tam Thân (Pháp Thân Phật ở giữa, bên trái là Ứng Thân Phật, bên phải là Báo Thân Phật) ở trên cùng, lớp thứ hai mới là bộ tượng Tam Thế. Có một số chùa có thêm lớp tượng A Di Đà phối với Tuyết Sơn bên trái, Di Lặc bên phải (cũng với ý nghĩa như bộ Tam Thế là Quá khứ, Hiện tại, Vị lai).
Trong ban Tam Bảo cũng có chỗ đặt đủ bộ tượng Bát Đại Bồ Tát (Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Nhật Quang, Nguyệt Quang, Mục Kiền Liên, Địa Tạng Vương, Văn Thù, Phổ Hiền).
2. Bài trí tượng cơ bản ở Tiền đường và hành lang hiện nay
– Tượng Hộ Pháp: Thường được bài trí ở hai bên Tiền đường, bên trái là Hộ Pháp Thưởng Thiện bên phải là Hộ Pháp Trừng Ác. Tượng Hộ Pháp thường có 2 dạng tạo hình: Dạng tạo hình thứ nhất thường rất to lớn ngồi trên con nghê. Dạng tạo hình thứ hai là tượng đứng trên mây, nhỏ hơn nhiều so với dạng tượng kia, có tạo hình như một vị Kim Cương. Vì vậy 2 Hộ Pháp dạng này thường gọi là Hộ Pháp Kim Cương.
– Ban tượng Đức Ông: Thường đặt bên trái trong Tiền đường, ở ban này có tượng Đức Ông đặt ở giữa, hai bên là Già Lam và Chân Tể.
– Ban tượng Thánh Tăng: Đặt đối xứng với ban Đức Ông qua trục chính của chùa. Giữa là tượng Thánh Tăng, một bên là Diện Nhiên, một bên là một trong là 3 vị khác nhau: Quỷ Vương, Bà La Môn Tiên, Vi Đà Thiên. Đặc biệt ở chùa Kim Liên ban Thánh Tăng đặt tượng Tôn Ngộ Không thay cho Diện Nhiên, đi cùng bộ bên kia là Vi Đà Thiên.
– Bộ tượng Thập điện Diêm Vương: Có thể là phù điêu hoặc tượng, được chia làm 2 bên, mỗi bên 5 vị. 10 vị452.
– Bộ tượng La Hán: có hai dạng thức: thứ nhất lấy theo sách Pháp Trụ Ký chép rằng “Mười sáu vị A la hán vâng sắc mệnh của Phật ở lại thế gian mà thủ hộ chính pháp, đến nay vẫn chưa nhập diệt”. Đời sau thêm 2 vị để thành 18 vị thường chia đôi và đặt ở hành lang hai bên; thứ hai chọn 18 vị trong 28 vị tổ Thiền Tông Ấn Độ, đầu tiên là Ca Diếp, A Nan Đà rồi đến các vị tiếp theo. Tượng La hán chùa Tây Phương chính là được làm theo dạng thức này. Đến nay nhiều chùa học tập phiên bản theo.
– Tứ Đại Thiên Vương: Có nơi đặt 4 vị ở 4 nơi như chùa Nành, có nơi chỉ chia làm 2 bên, mỗi bên 2 vị đứng cạnh nhau quay mặt vuông góc với trục chính của chùa như chùa Láng, chùa Thầy…
– Bát Bộ Kim Cương: Thường được chia làm 2 bên, mỗi bên 4 vị quay mặt vuông góc với trục chính chùa. Tuy nhiên vẫn có trường hợp đặc biệt như ở chùa Tây Phương, đặt các vị rải rác ở Tiền Đường, quay mặt ra các hướng khác nhau.
– Bộ tượng Vua Cha Tứ Phủ: là các vị đứng đầu Thiên Phủ, Địa Phủ, Nhạc Phủ, Thủy Phủ thường được đặt ở hai bên ban Tam Bảo, quay mặt với trục chính chùa.
3. Bài trí tượng ảnh hưởng đến mặt bằng kiến trúc Phật điện
3.1. Mặt bằng Phật điện thời Lý – Trần đến Mạc
Ở đầu thời Lý, trong Phật điện có rất ít tượng, nhiều giả thiết cho rằng chỉ có một pho Phật là chủ thần đặt ở chính giữa như tượng Phật ở chùa Phật Tích, tượng Phật chùa Chương Sơn, bệ Phật sư tử chùa Hương Lãng. Tượng Phật ở chùa Phật Tích và Chương Sơn đều ngồi trên bệ sư tử đội tòa sen. Phần đế dưới tạo hình như ngọn núi với các vòng sóng thủy ba mang ý nghĩa như một mô hình Tiểu thế giới Phật giáo mà trong đó có núi Tu Di và Cửu sơn bát hải. Vị Phật cai quan Tiểu thế giới này được đặt ở trên cùng, nhiều khả năng là đức Thích Ca Như Lai hoặc cao hơn nữa là Pháp thân của Như Lai hay còn gọi là Phật Tỳ Lô Giá Na.
Ở thời Lý, cũng có chùa đặt hai vị cạnh nhau trên một bệ Phật liền hai sư tử như ở chùa Bà Tấm, hai vị này có thể là đức Thích Ca và đức Đa Bảo Như Lai. Đến cuối thời Lý đã xuất hiện dấu vết của Tam Thế/Tam Thân Phật như ta thấy có 3 bệ tượng sư tử thời Lý còn lại ở chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh. Sự xuất hiện bộ tượng Tam Thế/Tam Thân Phật có lẽ được phát triển hơn và phổ biến vào thời Trần. Vào thời Trần đã gộp 3 bệ tượng độc lập lại thành một bệ to thường có dạng hình hộp chữ nhật, trên đặt bộ 2 hoặc 3 tượng Tam Thế/Tam Thân cũng đặt ở Thượng điện. Dấu vết bệ Phật hình hộp kiểu này được làm kéo dài đến tận giữa thời Lê Trung Hưng và hiện còn khá nhiều trong các ngôi chùa ở miền Bắc.
Ở chùa Khám Lạng, ngoài bệ Phật thời Lê Sơ ở phía trước, còn có 3 bệ tượng nhỏ, độc lập của 3 tượng trong bộ Tam Thế/Tam Thân đặt trên ban Tam Bảo, phía sau cùng trên cao. Vì chưa khảo sát được dấu vết về kiến trúc thời Lê Sơ của ngôi chùa này nên ko thể biết được chính xác vị trí của bộ tượng Tam Thế/Tam Thân là ở phía sau hay ở trên bệ Phật hình hộp. Tuy vậy cũng có thể nhận định đây là một dấu vết cho sự biến đổi công năng của các thời sau khi thay đổi bệ Phật thành hương án như bây giờ thấy ở một số ngôi chùa.
Hiện nay không còn tòa Phật điện thời Lý nào còn tồn tại, tuy thế qua những dấu tích khảo cổ và 3 tòa Phật điện thời Trần còn lại ta có thể thấy tòa Phật điện thời Lý (ở chùa không kiêm hành cung) và Trần thường rất nhỏ, bề ngang hai chiều dài trên dưới 10m (chùa Dâu hơn 9m, chùa Thái Lạc gần 8m). Thượng điện có quy mô một gian hai chái, được cấu tạo bởi hai bộ vì chính gồm 4 cột cái và 12 cột quân ở xung quanh trên một mặt bằng gần như vuông.
Những hiện vật tượng thời Lý, bệ Phật thời Lý – Trần hiện còn đa số có kích cỡ lớn nên khi đặt trong tòa Thượng điện sẽ chiếm khá nhiều không gian, vì thế có thể nhận định tượng đặt ở đây không có nhiều và kiến trúc bao che cũng không cần lớn.
Dạng kiến trúc Phật điện như thế này còn kéo dài đến tận thời Mạc vẫn làm, hiện nay vẫn còn tồn tại ở một số chùa như chùa Mui, chùa Hương Trai… Thời Mạc là thời kỳ mà tư tưởng được cởi mở hơn thời Lê Sơ nên việc xây dựng chùa, làm tượng Phật bùng nổ ở nhiều nơi ở trên vùng châu thổ Bắc Bộ. Ở thời kỳ này, tượng Phật đa dạng hơn về danh vị, loại hình và số lượng. Qua những dấu tích hiện còn, ta thấy ở thời Mạc xuất hiện tượng Quan Âm nhiều tay như ở chùa Bối Khê, chùa Đào Xuyên, tượng Vương/tượng Ngọc Hoàng như ở chùa Ngo, chùa Nhân Trai, chùa Trung Hành… Nhiều nơi bộ tượng Tam Thế cũng được làm với kích cỡ khá lớn. Đặc biệt ở thời kỳ này đã thấy xuất hiện bộ tượng Tam Thân rõ nét với tượng Đại Nhật Như Lai (hay còn gọi là Phật Tỳ Lô Giá Na) ở chính giữa được tạc mang nhiều nét Phật giáo Mật tông. Do đó việc Phật điện có dạng mặt bằng như các thời trước không đáp ứng đủ không gian bài trí tượng, vì vậy mà được mở rộng hơn về phía trước thành một tòa Tam Bảo hình chữ Công nhờ thêm phần Ống muống và Tiền đường. Phật điện trong kiến trúc chữ Công cũng được gọi là Thượng điện. Một ví dụ điển hình có thể gặp là tòa Tam bảo chùa Hương Trai.
3.2.Mặt bằng tòa Tam Bảo thời Lê Trung Hưng đến Nguyễn
Đến thời Lê Trung Hưng, hệ thống tượng còn được phát triển đa dạng hơn thời Mạc. Ở thời kỳ này hệ thống tượng Quan Âm được kế thừa và phát triển đa dạng hơn nữa. Ngoài loại hình Quan Âm nhiều tay phổ biến ở thời Mạc, thời kỳ này còn thêm nhiều hình tướng Quan Âm khác như Quan Âm Tọa Sơn, Quan Âm Tống Tử (hoặc Quan Âm Thị Kính) thường đặt ở hai bên của ban Tam Bảo. Quan Âm trong động Bổ Đà cùng với động Phật, động Diêm Vương được đắp bằng đất đặt ở Tiền Đường.
Đầu thế kỷ XVII còn là giai đoạn nở rộ hệ thống tượng hậu Phật thành một tín ngưỡng truyền thống trong Phật giáo đồng bằng Bắc Bộ, nên ta có thể thấy xuất hiện trong rất nhiều các ngôi chùa Việt cổ. Hệ tượng hậu Phật này được tạc rất cầu kỳ, có giá trị mỹ thuật cao, được đặt ngay trong tòa Tam Bảo, đôi khi còn được đặt trang trọng ở một tòa kiến trúc riêng biệt khác như ở chùa Bút Tháp.
Qua những gì hiện còn, ta có thể thấy một loạt các tượng gỗ ở trong chùa như tượng Hộ Pháp, Bát Bộ Kim Cương, Tứ Đại Thiên Vương, Thổ Địa, Giám Trai, Thánh Hiền, ban Thánh Tăng, ban Đức Ông, bộ tượng Thập Điện, bộ tượng La Hán đều có niên đại không sớm hơn thế kỷ XVII.
Có thể nói từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Phật giáo được phục hưng khiến cho hệ thống tượng phát triển đầy đủ, thâm nhập sâu hơn vào không gian của chùa Việt, kéo theo sự nở rộ thêm nhiều gian, nhiều tòa kiến trúc khác như nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Tăng, gác Chuông, gác Trống… trong quần thể ngôi chùa. Cũng ở thời kỳ này có thể thấy “mọc” lên một loạt các ngôi chùa “trăm gian”.
Mặt bằng chùa ở thời kỳ này từ dạng cơ bản là chữ Đinh, chữ Công cũng được phát triển hơn về quy mô, biến tấu thành nhiều dạng khác nữa như “nội Công ngoại Quốc”, “nội Đinh ngoại Quốc” , “tiền Nhất hậu Đinh,” , “tiền Nhất hậu Công” , “tiền Công hậu Công”… Một ví dụ điển hình như ở chùa Bối Khê, tòa Tam Bảo chữ Công thêm hai hành lang nối với nhà Tổ đặt phía sau tạo thành “nội Công ngoại Quốc”.
4. Bài trí tượng trong một số ngôi chùa xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt
4.1. Bài trí tượng trong chùa Keo Thái Bình
Trong tòa điện Phật hiện có rất nhiều tượng với vài phong cách mỹ thuật. Xét về kích thước cũng có thể phân làm 2 bộ tượng khác nhau, một bộ lớn và một bộ nhỏ có tỷ lệ chênh nhau khá nhiều. Vì vậy ở đây xuất hiện 2 ban chính đều có bộ tượng Tam Thế. 2 ban khác để bộ tượng Ngọc Hoàng và Thích Ca sơ sinh. Các tượng khác cơ bản bày theo lối truyền thống bám vào hai bên của tòa điện Phật.
Ở đây cũng xuất hiện 2 bộ tượng Hộ Pháp, một bộ Hộ Pháp dạng tượng Kim Cương đứng, một bộ Hộ Pháp Khuyến Thiện – Trừng Ác to lớn ngồi trên lưng nghê.
Do gộp vài hệ thống tượng như vậy nên việc bài trí tượng ở 4 ban giữa điện Phật đã thay đổi lớn so với vị trí ban đầu.
4.2. Bài trí tượng trong chùa Phổ Minh
Ban Tam Bảo ở đây chia làm 4 cấp tượng. Cấp trên cùng là bộ tượng Tây Phương Tam Thánh với Phật A Di Đà Tiếp Dẫn đứng giữa hai bên là Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Ở cấp kế tiếp vẫn có Phật A Di Đà ngồi ở giữa và phối hai bên là Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền. Ở cấp thứ 3 có tượng Di Lặc ở giữa, hai bên là 2 tượng Quan Âm Tọa Sơn. Tượng Quan Âm nhiều tay đặt ở cấp dưới cùng phối hai bên là Phạm Thiên và Đế Thích. Trước ban Tam Bảo có thêm một ban đặt tòa Cửu Long ở chính giữa, phía sau là bộ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Hai bên tòa Cửu Long có 2 tượng Bồ Tát và Thị Nữ. Có thể thấy vị trí nhiều tượng ở đây đã đặt sai quy cách. Việc bài trí sai này có thể một phần là do dồn tượng từ nơi khác đến như có 2 pho Quan Âm Tọa Sơn, 2 pho A Di Đà hoặc một phần bị mất tượng.
Ở Tiền Đường ngoài việc bố trí các tượng theo truyền thống như Hộ Pháp, ban Thánh Hiền, ban Đức Ông lại có sự xuất hiện của tượng Sư tổ Đạt Ma, tượng này thông thường được đặt ở Nhà Tổ.
Ở Thượng Điện ngoài bộ tượng Phật Thích Ca, Ca Diếp, A Nan Đà có bày thêm bộ Tam Tổ Trúc Lâm với tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông niết bàn ở giữa, hai bên là nhị tổ Pháp Loa và tam tổ Huyền Quang
4.3. Bài trí tượng trong chùa Tây Phương
Ban Phật ở Chùa Trung chia làm 4 cấp. Cấp trên cùng là bộ tượng Tây Phương Tam Thánh, ở giữa là Phật A Di Đà Tiếp Dẫn, hai bên thị giả là Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát. Cấp phía dưới ở giữa là tượng Tuyết Sơn, phía dưới Tuyết Sơn là tượng Di Lặc.
Ở ban Phật này hiện đang có 2 ý kiến trái chiều của các nhà nghiên cứu trước đây về 2 bộ tượng Ca Diếp – A Nan Đà và Pháp Hoa Lâm – Đại Diệu Tường. Ở hai bên Tuyết Sơn là 2 tượng có tạo hình mang tính phổ quát thường thấy trong các chùa truyền thống. Một tượng đứng 2 tay nắm vào nhau kết ấn Mật Phùng, đây là tạo hình chung cho tượng Ca Diếp. Tượng đứng bên kia 2 tay chắp vào nhau kết ấn Liên Hoa, đây là tạo hình chung cho tượng A Nan Đà. Ở hai bên Di Lặc là 2 tượng có tạo hình với các đặc điểm nhận dạng rõ ràng như các tượng tổ. Một bên là tượng có râu ria như hình tướng Ca Diếp, một bên tươi cười, tay cầm chồng sách như hình tướng A Nan Đà. Như vậy nếu nói bộ nào là Ca Diếp – A Nan Đà và bộ còn lại là Pháp Hoa Lâm – Đại Diệu Tường cũng đều có lý nên việc xác định được chính xác tượng cần phải có những nghiên cứu sâu hơn. Cũng có một giả thiết ngoài lề nữa là ở đây có 2 bộ Ca Diếp – A Nan Đà, bộ có hình tướng rõ rệt ghép với 16 tượng Tổ khác tạo thành bộ 18 La Hán và bộ có tạo hình phổ quát là 2 thị giả của Tuyết Sơn.
4.4. Bài trí tượng trong chùa Phật Tích
Tượng ở chùa Phật Tích về cơ bản tuân thủ theo truyền thống, được bố trí theo mặt bằng chùa có hình chữ Công gồm 3 tòa: Tiền Đường, Thiêu Hương và Thượng Điện. Ở tòa Tiền Đường có tượng Hộ Pháp, ban Đức Ông, ban Thánh Tăng đặt ở 2 bên. Bát Bộ Kim Cương cũng được bố trí sát 2 bên vách hồi Tiền Tế.
Vị trí trung tâm Thiêu Hương là pho tượng Phật lớn bằng đá thời Lý, hai bên sát vách là bộ Thập Điện Diêm Vương.
Ở Thượng Điện có ban Tam Bảo 3 cấp, cấp trên cùng là bộ tượng Tam Thế, cấp dưới ở giữa là tượng Phật Thích Ca, hai bên là Ca Diếp và A Nan Đà. Cấp thấp nhất ở giữa là Tòa Cửu Long, hai bên là 2 tượng Bồ Tát. Phía sau ban Tam Bảo có ban Quan Âm Tọa Sơn, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Sơn Thần, Ngọc Hoàng.
Bộ Thập Bát La Hán được bố trí ở 2 dãy hành lang nối với nhà Tổ ở phía sau. Đặc biệt ở chùa Phật Tích có một pho tượng nhục thân của Thiền sư Chuyết
Chuyết đặt trong nhà Tổ đệ nhất ở bên trái chùa. Hiện ở nước ta chỉ mới phát hiện có pho này với 3 pho (1 pho ở chùa Tiêu, 2 pho ở chùa Đậu) là tượng nhục thân của các Thiền sư.
4.5. Bài trí tượng trong chùa Thầy
Tượng Phật ở chùa Thầy được bài trí chính ở tòa Điện Phật và tòa Điện Thánh. Ở tòa Điện Thánh có bộ tượng Di Đà Tam Tôn được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2015. Phía trước là tượng Dược Sư. Ở đây còn có 2 tượng Thánh Từ Đạo Hạnh, một tượng đặt ở ngoài trên bệ sen sư tử thời Lý, một tượng đặt trong khám thời Mạc và chỉ được mở ra duy nhất một lần vào lễ Mộc Dục hàng năm. Ngoài tượng Thánh còn có tượng vua Lý Thần Tông.
Bài trí tượng ở Điện Phật chùa Thầy cũng khác so với các chùa khác. Hầu như toàn bộ tượng dồn hết vào Thượng Điện mà không bày ở Tiền Đường. Ở chính giữa vẫn là ban Tam Bảo có 4 cấp tượng, trên cùng là bộ tượng Tam Thế, thứ tự xuống là bộ Tuyết Sơn, Ca Diếp, A Nan Đà. Ở cấp thứ 3 đặt tượng Di Lặc ở giữa, hai bên là Quan Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát. Cấp dưới cùng đặt tượng Quan Âm Chuẩn Đề nhiều tay. Ở đây bộ tượng Diêm Vương chỉ còn có 6 pho được bày hai bên sát quay mặt vào ban Tam Bảo. Cùng hai hàng với tượng Diêm Vương là Phạm Thiên và Đế Thích. Ở chùa Thầy có 2 tượng Hộ Pháp cỡ cực lớn được đặt sát hai bên vách của Thượng Điện, bên cạnh là Tứ Đại Thiên Vương. Phía trước Hộ Pháp cũng có ban Đức Ông và Thánh Hiền. Ngoài ra còn có Bát Bộ Kim Cương được bày rải rác ở khu vực gần và trong Thiêu Hương.
4.6. Bài trí tượng trong chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Vĩnh Nghiêm là một chốn tổ lớn nên ở đây bài trí khá nhiều tượng. Tuy thế trải qua nhiều năm, vừa mất vừa thêm tượng nên cũng có sự xáo trộn trong việc bài trí ở ban Tam Bảo. Điển hình ở đây có 2 pho Phật A Di Đà ở vị trí số 4 và số 7. Tượng A Di Đà ở vị trí số 7 kết hợp với tượng Đại Thế Chí và Quan Thế Âm tạo thành bộ tượng Tây Phương Tam Thánh, tuy nhiên 2 tượng Bồ Tát 2 bên pho A Di Đà ở vị trí số 4 lại được làm theo hình mẫu Đại Thế Chí. Ở vị trí 13 còn có thêm tượng A Di Đà Tiếp Dẫn đứng giữa, hai bên lại là Quan Âm Chuẩn Đề và Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngoài ra trên ban Tam Bảo còn thấy sự xuất hiện của 2 tượng Hộ Pháp kích cỡ nhỏ. Hai tượng Hộ Pháp cỡ lớn được đặt ở ngoài Tiền Đường. Bộ tượng Tam Thế/Tam Thân vẫn được đặt ở vị trí cao nhất trong chùa.
Ngoài tượng trên ban Tam Bảo, tượng ở dưới vẫn tuân thủ theo cách bài trí truyền thống như bộ La Hán, bộ Thập Điện Diêm Vương, Tứ Đại Thiên Vương, ban Thánh Đức Ông, ban Thánh Tăng, Giám Trai, Thổ Địa xếp thành hai bên trong chùa.
Ở Tiền Đường còn có thêm 2 động Quan Âm rất đẹp, bên trái là Quan Âm động Bổ Đà, bên phải là Quan Âm động Hương Tích.
Ngoài ra, ở chùa còn thấy xuất hiện tượng Độc Cước và Tôn Ngộ Không đặt ở nhà Tổ Đệ Nhất.
5. Sự xáo trộn bài trí tượng trên Tam bảo trong các ngôi chùa cổ
Hiện nay, phần lớn các ngôi chùa cổ đều nhận thấy có sự xáo trộn vị trí tượng. Việc này là do nhiều nguyên nhân khách quan như một số chùa đã trải qua nhiều triều đại, qua nhiều cuộc chiến tranh, sự hư hại từ thiên nhiên, thời gian… nên mất mát hoặc hỏng hóc là khó tránh khỏi. Đến triều đại sau đã bổ sung thêm vào tượng vào những vị trí bị khuyết của hệ thống tượng của triều đại trước. Tuy nhiên đôi khi sự bổ sung thêm này mang ý tưởng, triết lý của triều đại sau nên có thể dẫn đến sự sai lệch của bài trí tượng ban đầu như một ví dụ về bài trí tượng trên ban Tam bảo của chùa Giám. Qua phong cách tạc tượng có thể nhận thấy ở đây hệ thống tượng ban Tam Bảo có 3 lớp niên đại: thế kỷ XVII, XIX, XXI. Lớp tượng thứ nhất là bộ Tam Thế niên đại thế kỷ XIX, lớp tượng thứ hai là bộ Tây Phương Tam Thánh có tượng A Di Đà ở giữa niên đại thế kỷ XVII, hai tượng Quan Âm, Thế Chí ở hai bên niên đại thế kỷ XIX, lớp tượng thứ ba đặt Thích Ca Niêm Hoa niên đại thế kỷ XIX ở giữa, hai bên là Văn Thù, Phổ Hiền niên đại thế kỷ XXI, lớp thứ tư ở giữa đặt tòa Cửu Long niên đại thế kỷ XIX, bên trái là tượng Quan Âm Bồ Tát niên đại thế kỷ XVII, bên phải là tượng Ca Diếp niên đại thế kỷ XIX. Đây là một ngôi chùa có kiến trúc của thế kỷ XVII và được trùng tu lớn trong thế kỷ XIX nên đã có sự thay thế gần như toàn bộ hệ thống tượng trên Tam Bảo dẫn đến hệ tượng niên đại thế kỷ XVII còn lại rất ít. Ở thế kỷ XVII tượng Quan Âm Bồ Tát cùng với tượng Đại Thế Chí Bồ Tát đứng ở hai bên tượng A Di Đà nhưng do đã mất tượng Đại Thế Chí nên thời nay đẩy xuống đặt cạnh tòa Cửu Long. Qua phong cách tạc tượng có thể nhận thấy pho Ca Diếp đặt ở hàng thứ tư là cùng một bộ với Thích Ca Niêm Hoa đặt ở hàng thứ ba, đến nay đã mất tượng A Nan Đà nên mới lẻ ra pho này. Thời nay ko tạc bù lại pho A Nan Đà mà làm thêm 2 pho Văn Thù, Phổ Hiền đặt 2 bên Thích Ca Niêm Hoa tạo thành bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh ở hàng thứ ba. Như vậy rõ rang là hiện nay vị trí đặt 2 tượng Ca Diếp, Quan Âm Bồ Tát đứng là đã sai với vị trí ban đầu và sai quy cách bài trí tượng trong chùa.
Việc xáo trộn trong bài trí tượng còn do nguyên nhân dồn tượng ở chùa khác về hoặc làm thêm tượng mới đưa vào dẫn đến việc trùng có 2 hoặc 3 lớp tượng trùng nhau như một ví dụ ở chùa La Dương, ở ba cấp trên cùng có đến 8 pho tượng Tam Thế/Tam Thân. Qua thế ấn có thể sắp xếp lại thành một bộ Tam Thân ở lớp tượng thứ nhất, một bộ Tam Thế ở lớp tượng thứ hai, tuy thế vẫn thừa ra 2 pho tượng Tam Thế. Một ví dụ khác ở chùa Vĩnh Nghiêm có đến hai bộ Tây Phương Tam Thánh đặt ở lớp tượng thứ 2 và thứ 3.
Việc bị mất tượng đôi lúc cũng dẫn đến sự xáo trộn về bài trí khi mà chùa chưa hoặc không bổ sung thêm tượng đã mất. Ví dụ ở chùa Vĩnh Nghiêm ở lớp tượng thứ năm đặt tượng A Di Đà Tiếp Dẫn ở giữa, bên trái đặt tượng Quan Âm Chuẩn Đề, bên phải đặt tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát. Rõ ràng ở đây đã mất tượng Mục Kiền Liên Bồ Tát nên mới đẩy pho Quan Âm Chuẩn Đề đúng ra là đặt ở giữa sang bên vị trí đối xứng. Việc đặt Tượng A Di Đà Tiếp Dẫn cùng với hai pho này cho thấy rõ ràng sự xáo trộn trong bài trí tượng.
Việc sắp xếp lại tượng qua các đợt trùng tu đôi khi cũng dẫn đến việc bố trí sai với vị trí ban đầu. Một ví dụ ngay ở chùa Hòe Nhai cũng nói lên điều này. Ở lớp tượng thứ hai, giữa đặt tượng A Di Đà nhưng hai bên lại đặt tượng Nhật, Nguyệt Quang Bồ Tát trong khi vị trí của hai pho này là ở hai bên tượng Dược Sư được đặt ở hàng thứ tư. Tuy nhiên hiện nay không thấy có tượng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí ở trên ban Tam Bảo. Như vậy có lẽ hai pho này đã bị mất, sau đó trong một lần trùng tu nào đấy đã xếp nhầm tượng Nhật, Nguyệt Quang Bồ Tát vào vị trí hiện nay. Tượng Địa Tạng và Mục Kiền Liên cũng không đứng ở hai bên tượng Dược Sư như hiện nay mà ban đầu đặt phối trong ban Tam Bảo thành bộ Bát Đại Bồ Tát.
Có thể nói những sự xáo trộn như vậy dẫn đến không ít nhầm lẫn về danh vị tượng khi mà các tượng bị đặt sai vị trí, ngoài ra cũng dẫn đến những sai phạm trong quy cách bài trí tượng ở chùa.
6. Nhận xét và đề xuất
6.1. Nhận xét về việc nghiên cứu chuẩn quy cách bài trí tượng trong chùa
Trên đây mới chỉ là vài nét cơ bản trong nghiên cứu quy cách về bài trí tượng trong tòa Tam Bảo của chùa. Muốn nghiên cứu chuyên sâu hơn cần phải có một khoảng thời gian dài cùng với việc điền dã thực tế hàng trăm ngôi chùa khác nhau. Không chỉ nghiên cứu tòa Tam Bảo mà còn cần mở rộng đầy đủ việc bài trí toàn bộ tượng ở trong chùa. Nghiên cứu tượng cần dựa trên đánh giá về niên đại, phong cách Mỹ thuật vùng miền, triết lý Tông phái Phật giáo, quy mô kiến trúc chùa.
6.2. Một vài lợi ích của việc nghiên cứu chuẩn quy cách bài trí tượng trong chùa
– Việc bài trí tượng được dựa trên những tư tưởng, triết lý sâu xa của Phật giáo để đưa ra những hình ảnh trực quan, những giáo lý cho chúng sinh nhìn thấy. Vì thế việc bài trí đúng quy cách trong chùa giúp cho phật tử dễ nhận biết danh vị các đức Phật, các Bồ Tát… từ đấy thấm sâu hơn tư tưởng Phật pháp.Việc bài trí tượng trong chùa đúng quy cách cũng là mô tả phần nào thế giới quan Phật giáo để chúng sinh có thể hình dung và biết hướng đến những cõi giới cao đẹp nhờ vào việc tu tâm, tích đức, năng làm việc thiện.
– Những quy cách chuẩn về bài trí tượng giúp ích cho việc sắp xếp lại, bổ sung thêm hoặc thậm chí là loại bỏ tượng thừa để cho hệ thống tượng trong chùa không còn bị xáo trộn như hiện nay.
Việc tính toán số lượng, bài trí tượng trong chùa là bước đầu của việc thiết kế quy mô mặt bằng chùa, dựa trên đấy đưa ra được hình thức kiến trúc đối với việc xây dựng những ngôi chùa mới.
6.3. Đề xuất một số biện pháp gìn giữ không gian tượng cổ trong chùa
– Cần tôn trọng không gian đặt tượng cổ của chùa, không đưa thêm tượng mới vào, như ngày nay ở một số chùa thấy có thêm tượng Thích Ca Sơ Sinh bằng nhựa tổng hợp lên ban Tam Bảo có tạo hình như “chú búp bê” sơn màu mè mất thẩm mỹ. Một số chùa còn bày thêm những pho tượng lưu niệm mua ở các nơi vào làm ảnh hưởng đến không gian tượng cổ.
– Ngoài ra cần có sự nghiên cứu loại bỏ một số đồ dùng đặt trên các ban tượng gây mất mỹ quan như đèn điện hình hoa uốn cong, đèn nhựa hình nến, hoa nhựa diêm dúa, một số đồ đồng… Chính những vật dụng này làm mất mỹ quan, phá hỏng sự linh thiêng của ban Tam Bảo.
– Việc đặt đồ lễ cúng dường cũng cần được tập trung ở bàn đặt lễ trước hương án, tránh đặt lung tung mỗi nơi một ít.
_Chú thích:
452. Tần Quảng Vương, coi điện thứ nhất; Sở Giang Vương, coi điện thứ hai;Tống Đế Vương, coi điện thứ ba; Ngũ Quan Vương, coi điện thứ tư; Diêm La Vương, coi điện thứ năm;Biến Thành Vương, coi điện thứ sáu;Thái sơn Vương, coi điện thứ bảy; Bình Đẳng Vương, coi điện thứ tám; Độ Thị Vương, coi điện thứ chín; Chuyển Luân Vương, coi điện thứ mười.
Tài liệu tham khảo:
- Trần Trọng Kim (1940), Phật Lục, Nxb. Lê Thăng, Hà Nội
- Chu Quang Trứ (2011), Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội
- Trang Thanh Hiền (2019), Nghệ thuật tạo tác tượng Phật trong các ngôi chùa Việt, Nxb. Hà Nội
- Trần Lâm Biền (20200, Văn hóa – Nghệ thuật Chùa Việt: Vài nét cơ bản, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
- Viện Nghiên cứu Di sản Văn hóa, Nguyễn Văn Hùng (chủ biên), Trần Trung Hiếu, Lê Thái Dũng, Nguyễn Thị Hương Mai (2020), Di tích Quốc gia đặc biệt Chùa Việt, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
- Đào Xuân Ngọc (2016), “Bước đầu tìm hiểu kiến trúc Phật giáo thời Lý, thời Trần từ tư liệu khảo cổ học”, Tọa đàm Khoa học Quốc tế “Nhận diện kiến trúc Việt Nam thời Lý – Trần qua tư liệu khảo cổ và sử liệu”, Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành.
- Đào Xuân Ngọc (2017), “Di tích Phật giáo bến Lăn – Hắc Y trong mối quan hệ với Phật giáo thời Trần”, Thông báo Khoa học Viện Nghiên cứu Kinh Thành.
- Trần Trọng Dương, Đào Xuân Ngọc (2017), “Loại hình học kiến trúc Mandala Phật giáo thời Lý từ sử liệu bia ký và khảo cổ học”, Kỷ yếu HTKHQT Văn hóa nghệ thuật thời Lý, Viện Nghiên cứu Văn Hóa Quốc Gia Việt Nam – Đại Học London, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội