1. Tây Nguyên nằm ở Tây Nam của khu vực miền Nam Trung Bộ, là dải đất nằm dọc theo dãy Trường Sơn Nam kéo dài khoảng 450 km dọc từ Bắc xuống Nam và khoảng 150 km từ Đông sang Tây có tổng diện tích khoảng 65.347 km². Tây Nguyên gồm 05 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng và được chia làm 3 cao nguyên chính: Cao Nguyên Kon Tum – Plây, cao nguyên Đắk Lắk và cao nguyên Lâm Viên – Di Linh. Trong đó, cao nguyên Lâm Viên – Di Linh là tổ hợp của ba cao nguyên: Cao Nguyên Langbiang; Cao Nguyên Di Linh (Cao Nguyên Mạ) và Cao Nguyên M’nông. Đắk Nông thuộc Cao Nguyên M’nông.
Nhắc đến Tây Nguyên là nghĩ ngay đến một vùng đất đầy dấu ấn văn hóa, từ những bộ sử thi, văn hóa tộc người, âm thanh, cảnh sắc tự nhiên, kiến trúc bản địa nổi bật với những mái nhà rông, nhà dài,… Trong kiến trúc, một phần văn hóa không thể tách rời, cũng góp phần làm nên một trào lưu điểm nhấn trong “hơi thở” nền kiến trúc tại nơi đây.
Ngày xưa để tránh thú dữ tấn công, người dân bản địa nơi này chọn những mẫu nhà sàn, và khi chọn lập làm làng phải có hàng rào bao quanh cũng để chống thú dữ và tộc người khác tấn công. Những mái nhà rông cao vút, ngoài những tiêu điểm mang dấu ấn biểu tượng văn hóa còn có tác dụng thoát mưa nhanh và mát mẻ vào mùa hè. Những căn nhà dài cả trăm mét được chia làm nhiều gian, mỗi gian là một gia đình (bếp) mang nét cộng cư cộng đồng lớn, một gia đình và nhiều gia đình đồng sử dụng.
Những vật liệu làm nên thương hiệu của kiến trúc Tây Nguyên là cây rừng và lồ ô được mọc rất nhiều tại vùng đất này. Có những cộng đồng dân tộc sử dụng lồ ô làm sàn, sạp, vách nhà, cây mây rừng làm lạt buộc, mái tranh rất dày để chống nước, vách nhà hơi nghiêng, cửa vào rẽ mái tranh (M’nông),… để chống nước tạt. Đó là những nét chính yếu ta dễ dàng nhận ra nhất.
Trước đây, Tây Nguyên hoàn toàn là mảnh đất, vùng giang sơn của các dân tộc thiểu số, rồi sau đó, người Champa, Kinh,.. có mặt rất sớm giao thương hàng hóa.
Đầu thế kỷ 19, Phật giáo mới có mặt tại Tây Nguyên cùng với người Kinh mang theo tôn giáo của mình lên Tây Nguyên để lập nghiệp kinh tế mới. Dù đi tìm cuộc sống nơi vùng kinh tế mới, song những người di dân luôn mang theo tinh thần đạo pháp từ quê hương đến vùng đất này, rồi tập trung công sức xây dựng một ngôi chùa nhỏ bằng tranh tre nứa lá. Đó là mốc quan trọng để hình thành nên những cơ sở thờ tự Phật giáo đến tận hôm nay. Những cơ sở thờ tự đầu tiên của Phật giáo thường có quy mô nhỏ, mang tính chất gia đình, sau đó, những cơ sở tập trung dần xuất hiện rồi phát triển ngày một rộng lớn, đặc biệt là từ những thập niên 50 với chính sách “dinh điền” của Ngô Đình Diệm.
2. Kiến trúc Phật giáo ở Tây Nguyên dù ra đời và hội nhập muộn, song lại sớm “hòa nhập” với nền kiến trúc bản địa mang âm hưởng của nắng, mưa Tây Nguyên (Tây Nguyên chỉ có hai mùa: mùa nắng từ tháng 11 – 4 và mùa mưa từ tháng 5 – 10), cộng với những dãy đồi san sát với tiềm năng rất lớn về lâm nghiệp,… Có thể kể ra đây một số chùa tiêu biểu như: Chùa Tứ Sắc Khải Đoan – Buôn Ma Thuột, chùa Pháp Hoa – Đắk Nông; Chùa Linh Sơn – Lâm Đồng,…
Hòa chung với nét văn hóa và chủ trương “Phật giáo nhập thế”, kiến trúc Phật giáo Tây Nguyên có những nét đột phá đáng kể, mang nét giao thoa của Á Đông và Phật giáo rõ rệt:
– Đa phần những công trình chùa được tọa lạc tại những địa thế phong thủy hữu tình được mang nét “ngôi nhà chung” cũng giống như về quy hoạch làng, bon, buôn, plây,… của người dân địa phương. Tất cả đều được xem là ngôi nhà chính của vùng, nhà ở của dân luôn quây quần hướng về đó.
– Mái chùa được tạo độ dốc lớn mang nét kiến trúc mái nhà rông, mái cong vẫn giữ lại nét Á Đông để tạo dáng là kiến trúc cổ Phương Đông.
– Không gian lớn được tạo lập để phục vụ công tác hành lễ, khối dài nên nhiều công trình chùa Tây Nguyên nhìn xa man mác như một ngôi nhà dài, nhà rông, nhà Gươl có vai trò đóng góp làm “ngôi nhà chung” hiện hữu như trong bố cục làng truyền thống của sắc tộc thiểu số vùng đất Tây Nguyên.
– Về tỷ lệ phần thân thường ít cao hơn mái, có những công trình làm hàng cột ở tầng hầm như nhà sàn, để tận dụng không gian tầng hầm, và tránh việc san lấp cũng như tận dụng tối đa địa thế, địa mạo của Tây Nguyên.
– Không gian đa phần là nửa kín, nửa hở để hòa nhập vào mùa khí hậu Tây Nguyên.
– Cùng với xu thế hiện tại là “kiến trúc xanh”. Kiến trúc bản địa của Tây Nguyên mang nét “kiến trúc xanh” rõ nét, nên cũng là một điểm sáng để kiến trúc Phật giáo tiếp tục tìm tòi những điểm chính để vận dụng vào việc kiến thiết các ngôi chùa tại đây. (minh họa)
3. Từ những nét kiến trúc độc đáo của Tây Nguyên, những người làm công tác Phật sự cần biết cách chắt lọc, chắt chiu những điểm chính của kiến trúc Tây Nguyên để tạo lập ra một không gian phù hợp cho kiến trúc Phật giáo tại đây.