– Tóm tắt:
Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo Bình Dương nói riêng với tinh thần nhập thế mãnh liệt luôn đồng hành cùng dân tộc Việt trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Khi đất nước hưng thịnh có sự đóng góp của Phật giáo, khi đất nước trong cảnh lầm than nô lệ Phật giáo đã cùng dân tộc vùng lên đánh đổ giặc ngoại xâm. Các thế hệ Tăng Ni đã kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của các bậc tiền bối: Đại sư Khuông Việt, Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh, Phật hoàng Trần Nhân Tông…nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Phật giáo Bình Dương cũng hòa bình vào tinh thần chung của Phật giáo Việt Nam thông qua những nét rất riêng và đặc trưng dưới sự lãnh đạo của các bậc danh tăng tiền bối như Hòa thượng Từ Văn, Hòa thượng Thiện Hương, Hòa thượng Trí Tấn…
A. DẪN NHẬP
Phật giáo là tôn giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và trở thành tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự phát triển của dân tộc trên nhiều lĩnh vực: đời sống tinh thần, văn hóa, kinh tế, chính trị…Tư tưởng Phật giáo được người dân Việt tiếp thu về xuất thế và nhập thế. Ở khía cạnh nhập thế, người Việt đã ứng dụng Phật giáo thông qua cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông vào thế kỷ XIII dưới sự lãnh đạo của các ông vua kiêm thiền sư: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, danh tướng Trần Hưng Đạo…Sau đó, dưới sự nổi lên của Nho giáo và điều kiện lịch sử trong một thời gian dài đạo Phật đã rút lui khỏi vũ đài chính trị và phát triển trong lòng dân tộc.
Đối diện với cuộc xâm lược của thực dân Pháp và Mỹ những năm đầu thế kỷ XX, Phật giáo cần có một cuộc chấn hưng để gắn bó Phật giáo với vận mệnh dân tộc. Cuộc chấn hưng Phật giáo có liên hệ nhiều với các phong trào yêu nước diễn ra tại cả ba miền đặc biệt là phong trào Đông Du và phong trào Tây Du tiêu biểu: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Sinh Sắc…
B. NỘI DUNG
1. Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam
Người dân Việt luôn tự hào về nòi giống tiên rồng của mình với truyền thuyết Âu cơ, nhà nước Văn Lang với 18 đời vua Hùng, Thục Phán lật đổ vua Hùng hình thành nên nước Âu Lạc lấy hiệu là An Dương Vương nhờ thần Kim Quy xây thành Cổ Loa, lịch sử oai hùng về các tướng tài như Lý Ông Trọng (Lý Thân)71, Cao Lỗ…nhưng vì chút lơ là với giặc, công chúa Mị Nương đã tin lầm chồng Trọng Thủy, khiến cho nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, từ đây sát nhập nước Triệu và Âu Lạc thành nước Nam Việt. Nước Việt bị đô hộ hơn 1000 năm dưới ách thống trị của Trung Hoa vẫn luôn xuất nhiều cuộc phản kháng: Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế (Tiền Lý), Triệu Việt Vương…72 Năm 938, Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Từ đó, dân tộc ta bước sang kỷ nguyên độc lập tự chủ, là cột mốc đánh dấu thời kỳ phát triển rực rỡ qua các triều đại của chế độ phong kiến Đại việt: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ.
Đạo Phật truyền vào Đại Việt khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch theo các tài liệu như: Hậu Hán Thư, Lý Hoặc Luận của Mâu tử, kinh Tứ Thập Nhị Chương và một số tài liệu khác cho biết rằng trong đời Hậu Hán (thế kỷ I và II) ngoài hai trung tâm Phật Giáo ở Trung Hoa, còn có một trung tâm Phật Giáo rất quan trọng ở Giao Chỉ, tức Đại Việt (lúc bấy giờ đang là thuộc địa của Trung Quốc). Điều chắc chắn rằng vào cuối kỷ thứ hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật Giáo phồn thịnh và quan trọng.
Trong Cao Tăng Truyện chép về cuộc trò chuyện giữa Hoàng Thái hậu Phù Cảm Linh Nhân và thiền sư Trí Không. Thiền sư đã trả lời câu hỏi của Hoàng Thái hậu một cách thông minh và đầy đủ về cuộc trò chuyện giữa Đàm Thiên pháp sư và vua Văn Đế (Tùy Cao Tổ Trung Quốc) về Phật giáo tại Giao Châu73. Chính thiền sư Trí Không sau này được triều đình tôn xưng Thông Biện quốc sư (vị học rộng biết nhiều).
Khi đất nước giành được thống nhất thì Phật giáo có điều kiện phát triển rộng rãi và ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Đất nước phục hưng, triều đình và việc nước cần được chấn chỉnh, ngoại giao cần có người hiền tài, trí thức. Những vấn đề được đặt ra cấp bách và cần được giải quyết nhanh chóng đều nhờ vào Phật giáo; chứng tỏ đạo Phật không chỉ là tôn giáo suông mà còn là nơi sản sinh ra các thành phần tri thức cho xã hội lúc bấy giờ. Thể hiện qua không chỉ thường dân mà cả giới quý tộc, quan lại đều sùng mộ đạo Phật; khi về già thì họ lại vào chùa khoát áo cà sa, hay quy y thọ giới. Điều tất yếu vào các triều đại phong kiến Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đều quy định các chức Tăng quan đồng thời các vị Thiền sư được làm cố vấn triều đình với cương vị Quốc sư.
Ngay sau khi lên ngôi, vua Lý Nam Đế (544-548) đã cho dựng chùa Khai Quốc (tiền thân của chùa Trấn Quốc nằm trên đảo Cá Vàng (Kim Ngư) ở Hồ Tây, thuộc quận Tây Hồ, TP Hà Nội ngày nay)74 ở giữa Kinh đô. Việc xây dựng chùa Khai Quốc cho chúng ta thấy rằng nhà vua đã nhận thức sâu sắc vai trò của Phật giáo trong xây dựng và gìn giữ nền độc lập dân tộc.
Thời Đinh, Tiền Lê có nhà sư Ngô Chân Lưu “Vua Đinh Tiên Hoàng mời đến, Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong làm Tăng thống. Năm Thái Bình thứ hai (917), Vua ban hiệu Khuông Việt đại sư. Hoàng đế Lê Đại Hành càng kính trọng Sư hơn, phàm việc quân, việc nước ở triều đình, Sư đều dự vào”75 cho chúng ta thấy được vai trò và vị trí vô cùng quan trọng của Phật giáo đối với đất nước.
Vua Lê Đại Hành cử Thiền sư Pháp Thuận cải trang làm người lái đò để nghinh đón sứ thần nhà Tống ở Giang khúc. Vua cũng tham vấn Thiền sư về vận mệnh của đất nước khi đứng trước cảnh thù trong giặc ngoài. Để nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của sự tập trung nguyên khí, sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc dưới ánh sáng niềm tin trí tuệ hòa hợp của đạo Phật, Thiền sư đã dùng hình ảnh vận nước như dây mây quấn quýt cuốn lại trong nhau trong bài “Quốc tộ”:
“Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.”76
Bài thơ được xem như bảng tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt từ thế kỷ X trong tinh thần dân tộc hộ quốc an dân của Phật giáo.
Thiền sư Vạn Hạnh77 là cố vấn của nhà Tiền Lê và có công đưa Lý Thái Tổ lên ngôi hoàng đế. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) vốn là chú tiểu trong chùa được Thiền sư Vạn Hạnh và Thiền sư Khánh Vân nuôi dạy cả văn lẫn võ và Phật học, sau này trở thành bậc minh quân mở ra thời kỳ huy hoàng cho lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngài đã dời đô từ vùng núi Hoa Lư (Ninh Bình) chật hẹp về Đại La rồi đổi tên thành Thăng Long; với ý nguyện mở rộng bờ cõi, phát triển kinh tế và bảo vệ cho nền độc lập nước nhà. Theo Chiếu Dời Ðô: “Đất Thăng Long ở giữa khu vực trời đất, có địa thế rồng cuốn hổ phục, ở giữa Nam Bắc Ðông Tây, tiện hình thế núi sông sau trước: đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh”78 nhờ vậy xã hội triều Lý phát triển về mọi mặt: nông nghiệp, thủ công nghiệp, giao thông thương mại. Phật tử Thái úy Lý Thường Kiệt có công lao hiển hách trong sự nghiệp chống ngoại xâm đánh đuổi quân Tống khỏi bờ cõi.79
Không chỉ vậy, nhiều thiền sư đóng góp công lao cho công cuộc kiến thiết đất nước; tùy theo từng giai đoạn lịch sử mà các Ngài gánh vác các công việc khác nhau. Tiêu biểu thiền sư Mãn Giác: “Vua Lý Nhân Tông nói với thiền sư Mãn Giác: “Bậc chí nhân hiện thân ở cõi đời tất phải làm việc để cứu chúng sinh, không hạnh nào là không cần có đủ, không việc gì không phải chăm lo, chẳng những đắc lực về thiền định trí tuệ mà cũng có công giúp ích cho nhà nước””80, các Thiền sư: Nguyễn Minh Không, Giác Hải, Viên Thông, Từ Đạo Hạnh, Lâm Huệ Sinh81 đã góp phần tạo nên vương triều nhà Lý phát triển rực rỡ trên 200 năm, được mệnh danh “triều đại thuần từ nhất trong lịch sử”.
Thời vua Trần Thái Tông, Trúc Lâm Đại Sa Môn (Viên Chứng), luôn đặt sự tồn vong của quốc gia như sự tồn vong của đạo Phật. Minh chứng cho điều đó, khi Trần Thái Tông trốn lên núi Yên Tử đã được thiền sư khuyên: “Trong núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm ta”82. Ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo khi mới lên ngôi, Vua đã lo việc truyền bá đạo Phật bằng cách lập chùa, đúc chuông và hộ trì Tam bảo. Sử có chép lại: “Năm 1231: Tháng 8, vua ngự đến hành cung Tức Mặc, dâng lễ hưởng ở tiên miếu, thết yến và ban lụa cho bô lão trong hương theo thứ bậc khác nhau. Thượng hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chổ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ; Năm 1249: Nhà vua cũng sai tu sửa chùa Diên Hựu”83. Khi Trần Thái Tông đọc kinh Kim Cương đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”84 thì ngộ được đạo Thiền. Sau đó (khoảng năm 1247-1252) ông viết sách Thiền tông chỉ nam để truyền bá cho hậu thế về kinh nghiệm giác ngộ của mình. Năm 1248, Thiền sư Viên Chứng được vua tôn xưng là quốc sư rồi đưa thiền sư xem tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam”. Thiền sư khi đọc được tác phẩm này đã nhận xét: “Tâm của chư Phật ở cả trong này”85 đồng thời khuyến khích nhà vua lưu hành rộng rãi trong nhân gian. Vua còn dựng chùa Tư Phúc trong nội đô Thăng Long, để trao đổi thêm kiến thức với các cao tăng, đồng thời giảng dạy Thiền học cho lớp hậu sinh, ” đúc 330 quả chuông, hằng ngày vua cúng trai tăng cho hơn 500 vị, độ làm đệ tử hơn 30 người”.86
Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung là anh của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn vừa là thiền sư vừa là đại tướng quân cống hiến cả đời cho đất nước, cho Phật giáo. Vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông đều là những bậc có đạo đức trí tuệ hơn đời vừa là minh quân thánh chúa, vừa là những thiền gia tu đạo, đắc đạo, mộ đạo.
Có thể thấy tiêu biểu nhất là vua Trần Nhân Tông, sau khi lãnh đạo nhân dân Đại Việt đánh tan giặc Nguyên – Mông đã nhường ngôi lại cho con trai và lên núi Yên Tử xuất gia tu hành, trở thành Sơ tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – thiền phái Phật giáo nhất tông mang tư tưởng độc lập của dân tộc Việt Nam, được người đời tôn xưng Phật Hoàng. Với tác phẩm “Cư Trần lạc đạo phú” đã trở thành minh triết sống cho dân tộc Việt Nam từ đó đến nay.
Vị anh hùng Nguyễn Trãi có công phò vua Lê Lợi đánh tan quân Minh dành lại độc lập cho dân tộc, với bản thiên cổ hùng văn “Bình Ngô Đại cáo”87 được viết sau khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm (1417–1427). Tuy ông xuất thân Nho học, nhưng là một người học Phật uyên thâm. Bài thơ Nôm “Mộc cận” của ông nói về chân lý thực tướng của vũ trụ vạn vật qua triết lý “sắc”, “không” vô cùng uyên thâm của Phật giáo:
“Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vẫn nhơ chẳng bén Bụt là lòng
Chiều mai nở, chiều hôm rụng
Sự thật cho hay tuyệt sắc không”88
Trong thế kỷ XVIII, đất nước rối ren, nội chiến liên miên, Thiền sư Hải Lượng Ngô Thì Nhậm cùng các danh sĩ Bắc Hà, viết cuốn Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, nhằm xiển dương tông chỉ nhập thế cứu nước cứu dân của Phật Hoàng Trần Nhân Tông để phục hưng đất nước.
Thế kỷ XIX có Thiền sư Toàn Nhật – Quang Đài từng là tướng quân, xuất gia tu hành, cũng hết lòng truyền bá tư tưởng nhập thế của Phật Hoàng Nhân Tông với mong muốn cứu dân cứu nước.89 Chúng ta thấy rằng các vị Tăng trong giai đoạn này là những cao Tăng, Ðại đức, thông thái và giữ nhiều địa vị quan trọng trong triều đình. Không chỉ vậy: “các Ngài còn là những là thi sĩ lỗi lạc, những nhà ngoại giao tài tình và những nhà mô phạm uyên bác”90 các Ngài đã tận tụy đem sở học, sở đắc của mình nhập thế cứu đời, tạo uy tín cho đạo Phật; khẳng định rằng đạo Phật không phải yếm thế, nhu nhược mà tích cực trong việc cứu đời và góp phần rất lớn trong công cuộc dựng nước, giữ nước và an dân.
2. Vai trò của Phật giáo trong giai đoạn Thực dân Pháp xâm lược
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Phật giáo Việt Nam tiếp nối truyền thống nêu cao ngọn cờ yêu nước, kề vai sát cánh cùng toàn thể nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc. Chế độ thực dân Pháp xem đạo Công giáo là công cụ hữu hiệu làm bàn đạp để thôn tính nước ta nên việc san bằng các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng thờ tự và việc tiêu diệt Phật giáo là một mục tiêu được chính quyền thực dân Pháp ưu tiên hàng đầu91.
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng đánh vào cửa biển Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trong 30 năm tiếp theo, quân Pháp lần lượt đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ, Bắc Kỳ, kinh đô Huế (1883), buộc triều đình nhà Nguyễn từng bước phải nhượng bộ, lần lượt ký các hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Quý Mùi (1883) và Hiệp ước Giáp Thân (1884), thừa nhận nền thống trị của thực dân Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.92
Từ đây các Tăng Ni, cư sĩ đồng bào Phật giáo luôn tích cực dấn thân vào sự nghiệp vệ quốc giải phóng của toàn dân tộc. Có thể kể ra vài cuộc khởi nghĩa như của cư sĩ Võ Trứ (đệ tử của Thiền sư Đá Bạc) cùng với Trần Cao Vân mở hội nghị tại Tuy An (Bình Định) vào năm 1898, thực dân Pháp còn gọi đây là “Cuộc chiến tranh thầy chùa”93. Cuộc khởi nghĩa của Tăng sĩ Vương Quốc Chính phát ra ở phía Bắc, từ Nghệ An ra tới Bắc Ninh tập trung hàng vạn Phật tử tham gia. Nhưng có thể thấy rằng những cuộc khởi nghĩa này mang tính cá nhân, đơn lẻ không do Giáo hội Phật giáo chủ trương, vì Phật giáo luôn chủ trương “bất bạo động”.
Các nhân sĩ yêu nước tiêu biểu trong thời kỳ này như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Vương Thúc Quý, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Trần Cao Vân, Phan Khôi, Trần Quý Cáp, Trần Huy Liệu cũng đều tin tưởng vào các cao tăng, Phật tử của Phật giáo ở mức độ này hay mức độ khác. Chí sĩ Trần Cao Vân từng xuất gia tu hành ở chùa Cổ Lâm – Đại Lộc – Quảng Nam với pháp danh Như Ý thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh và vừa ra sức hoạt động cách mạng.
Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với sở học uyên thâm, tầm nhìn sâu rộng, cụ nhìn thấy rõ vai trò và ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo đối với sự tồn vong của dân tộc; nên suốt hành trình tham gia các hoạt động yêu nước cứu quốc, cụ đã tích cực tham gia vào các hoạt động chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX. Cụ thường trao đổi nghiên cứu Phật học với các bậc cao tăng nổi tiếng đương thời như Hòa Thượng (HT) Khánh Anh, HT Khánh Hòa, Sư Thiện Chiếu, HT Từ Văn, HT Chí Thành, HT Viên Minh, HT Đạt Điền, HT Hầu Thoại, HT Như Hồng, HT Hồng Đại…Cụ đã chu du khắp nơi để truyền bá tư tưởng yêu nước, giải phóng dân tộc. Trong hành trình đó chùa chính là nơi dừng chân, chư Tăng là bạn tâm giao để gửi gắm chí hướng và tấm lòng yêu nước của mình.94
Hơn thế nữa nhiều cơ sở thờ tự của Phật giáo trên khắp mọi nơi đã trở thành những căn cứ che chở, nuôi giấu cán bộ cách mạng như: chùa Quảng Bá, chùa Linh Quang, chùa Ngọc Hồi, chùa Tự Khánh, chùa Thanh Trì, chùa Sùng Giáo (Hà Nội), chùa Trại Sơn, chùa Trúc Động, chùa Vũ Lao (Hải Phòng), chùa Ninh Cường, chùa Cổ Lễ, chùa Vọng Cung (Nam Định), chùa Hoa Sơn, chùa Bích Động (Ninh Bình), chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), chùa Hội Khánh (Bình Dương)…95
Phật giáo còn thành lập các tổ chức “Tăng già cứu quốc”, “Đoàn Phật giáo cứu quốc”, “Bộ đội Tăng già”, “Hội Phật giáo cứu quốc” mục đích quy tụ, vận động và tổ chức cho Tăng Ni, Phật tử tham gia cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, Phật giáo đã cho phá hủy nhà in Đuốc Tuệ và nhiều cơ sở vật chất khác của Phật giáo để ủng hộ cách mạng chống Pháp.96
Các vị cao tăng yêu nước tiêu biểu như: Hòa Thượng (HT) Tâm Thi (1889-1959), HT Thanh Lộc (…), HT Thanh Chân (1905-1989), HT Thế Long (1909-1985); HT Đôn Hậu (1904-1992); HT Thiện Hào (1911-1997); HT Tâm Thông(1916-1999); HT Thuận Đức (1918-2000)… các Tăng Ni, phật tử đã tích cực hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, tiêu biểu là sự kiện 11 nhà sư đã phát nguyện “cởi áo Cà – Sa khoác áo chiến bào” tại chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định vào ngày 27/02/195097.
Chùa Tam Bảo, trụ sở Hội Phật học kiêm tế của Thiền sư Thích Thiện Chiếu trở thành nơi cất giấu vũ khí, nuôi giấu cán bộ kháng chiến. Thiền sư bị đày ra nhà tù Côn Đảo, dù bị tra tấn dã man, nhưng vẫn một lòng trung thành với cách mạng.98 Chùa Linh Thứu (Mỹ Tho) là trụ sở của tờ báo Dân cày của Tỉnh ủy Mỹ Tho, nơi liên lạc của Đảng, từng nuôi giấu và che chở cho các cán bộ lãnh đạo cách mạng, đây cũng là nơi khởi đầu của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.99
Ở miền Bắc nhà sư Thái Hòa thành lập Tăng già cứu quốc và tổ chức khắp các địa phương và các tổ chức Phật giáo cứu quốc; tại chùa Quán Sứ, cư sĩ Thiều Chửu đã đưa hơn 50 em cô nhi ra vùng giải phóng, Thích Pháp Long (chùa Cổ Lễ, Nam Định) đã hoạt động tích cực tại vùng kháng chiến, gần 30 Tăng sĩ và cư sĩ đã tạm thời ngừng việc tu học đi vào vùng kháng chiến. Ở miền Trung, cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếng đã cùng gia đình thoát ly tham gia kháng chiến và giữ chức vụ Chủ tịch ủy ban hành chính Nam Trung Bộ…Ở miền Nam, đa số Tăng sĩ tại Phật học đường Trà Vinh đều bỏ học đi theo kháng chiến…100
Đặc biệt Phật giáo còn phát động phong trào chấn hưng Phật giáo. Với mục đích chấn hưng tư tưởng của một bộ phận Tăng Ni, Phật tử đặc biệt là lớp trẻ, định hướng họ không sa đà vào những hoạt động mê tín dị đoan, sống cuộc sống vật chất, thực dụng, thiếu lý tưởng do luồng tư tưởng của chủ nghĩa thực dân đem đến. Cuộc vận động chấn hưng Phật giáo đã cảnh tỉnh nhiều nhà trí thức, làm dấy lên làn sóng đề cao tinh thần, văn hóa dân tộc ở khắp các tỉnh miền Nam thời bấy giờ. Có thể nói rằng: “Phật giáo đã trở thành lực lượng chủ yếu trong phong trào kháng chiến”101.
3. Những đóng góp của Phật giáo Bình Dương
Từ sau năm 1698, với sự thiết lập cơ cấu hành chính của Nguyễn Hữu Cảnh, vùng đất Đàng Trong, mà Đồng Nai, Gia Định là hai khu vực lớn, đón nhận di dân từ miền Trung vào Nam khai phá, các chùa cũng theo sự có mặt của di dân mà hiện diện rộng khắp. Dinh Trấn Biên thuộc huyện Phước Long xưa, vốn bao gồm 3 trung tâm thị tứ của Bình Dương ngày nay: Tân Uyên, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một. Dọc theo hai bờ sông Đồng Nai và lan sang các Tỉnh như Bình Dương, Tây Ninh…khu vực Đông Nam bộ bấy giờ đã là điểm đầu tiên, đưa Phật giáo từ miền Trung du nhập vào Nam bộ. Phật giáo tại Bình Dương đã có những đóng góp trong vận mệnh dân tộc, vận mệnh Phật giáo. Điều này được minh chứng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc. Sự ra đời của các phong trào tổ chức yêu nước của Phật giáo Bình Dương đã góp phần to lớn vào thành công chung của dân tộc. Có thể sơ lược về các tổ chức: Hội Lục hòa Liên xã (1922), Hội Danh dự yêu nước (1923), Hội Phật giáo Cứu Quốc Thủ Dầu Một (1947), Giáo hội Lục hòa Tăng Việt Nam (1952) và Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam (1969)…
* Hội Lục hòa Liên xã (1922)
Theo Hòa Thượng Thích Huệ Thông, Hội Lục hòa Liên xã ra đời gắn với sự kiện Hòa Thượng Từ Văn làm Chánh chủ kỳ tại Trường hương chùa Giác Lâm năm 1922. Tại ngôi chùa được ví như là cái nôi trong tông môn pháp phái của Hòa Thượng Từ Văn, trong dịp quy tụ đông đủ chư tôn thiền đức các nơi về dự Trường hương, với uy tín và công đức dày sâu của mình, với địa vị một “Sư Cả” của Phật giáo Nam kỳ, Hòa Thượng Từ Văn đã cùng những người đồng chí kín đáo thành lập Hội Lục Hòa Liên Xã.102
Nhưng xét về mặt lịch sử năm 1923 Hội Lục Hòa Liên Hợp của sư Khánh Hòa, Từ Phong hay Thiện Chiếu mới được thành lập, thấy được thực chất hoạt động và nội bộ bị khuynh loát của Lục Hòa liên hợp nên chư tôn đức Tăng già tại Đông Nam bộ đã từ chối lời mời gọi cùng tham gia hoạt động với Lục Hòa Liên Hợp của sư Khánh Hòa.103
Có thể Hòa Thượng Từ Văn đã lập Hội Lục Hòa Liên Xã vào sự kiện vào năm Giáp Tý (1924), khi Hòa Thượng Từ Văn về chùa Giác Viên, Gia Định làm Pháp sư Chúc thọ giới đàn ở đây.104 Sự kiện này cũng quy tụ đông đảo chư tôn thiền đức các nơi về tham gia giới đàn, cũng là dịp phù hợp để Hòa Thượng tuyên bố một Phật sự quan trọng, có ý nghĩa lịch sử: thành lập hội Lục Hòa Liên Xã.
Thời điểm năm 1924, cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc đã về trú ngụ ở chùa Hội Khánh. Do đó, có thể ý định tổ chức một hội Lục Hòa khác, có hoạt động gắn liền thực tế nhân sinh của dân tộc và Tổ quốc của Hòa Thượng Từ Văn đã có sự đồng tình ủng hộ và cổ vũ của cụ Phó Bảng, dẫn đến sự ra đời của Hội Lục Hòa Liên Xã với khuynh hướng hoạt động yêu nước thể hiện khá tiêu biểu ở Hội Danh dự yêu nước Thủ Dầu Một. Xét về nhiều mặt, sự kiện này hợp lý hơn.105 “Mùa xuân năm 1926, cụ Sắc đến chùa Hội Khánh (Thủ Dầu Một), bàn bạc với một số Phật tử như Tú Cúc, Thiện Quới… lập ra hội “Danh dự yêu nước”, lấy chùa Hội Khánh làm trụ sở, hoạt động chủ yếu là truyền bá, phổ biến và chấn hưng đạo Phật, nhưng thực chất bên trong là tuyên truyền kích động phong trào yêu nước, xuyên qua các buổi thuyết pháp, giảng đạo, mở các lớp dạy chữ Nho, dạy Kinh Dịch, dạy làm thuốc…”.106
Có thể nói đây là một tổ chức ngầm được hình thành từ lòng yêu nước và sự công nhận trong hàng tăng già tiền bối và chư Tăng Ni, Phật tử. Với tôn chỉ phục vụ công cuộc chấn hưng Phật giáo và đấu tranh dành độc lập tự do cho dân tộc, tổ chức Lục Hoà Liên Xã đã có những đóng góp to lớn cho hoạt động Phật giáo Nam bộ và các phong trào cứu quốc.
* Hội Phật giáo Cứu Quốc Thủ Dầu Một (1947)
Giữa những kìm kẹp của chế độ thực dân, sinh hoạt của Phật giáo đều bị ngưng trệ. Giữa tình thế đó, để bảo vệ đạo pháp, vào ngày 23 tháng 3 năm 1945, Hội Phật giáo Cứu quốc Thủ Dầu Một được ra mắt tại chùa Hội Khánh do Thiền sư Minh Tịnh làm chủ tịch107, Hòa Thượng Thiện Hương – chùa Hội Khánh làm Phó Chủ tịch. Sự ra đời của Hội Phật giáo Cứu quốc Thủ Dầu Một đã tác động mạnh mẽ đến lòng yêu nước trong hàng ngũ thanh niên Tăng Ni, tín đồ Phật giáo tại Bình Dương. Các tấm gương tiêu biểu: Hòa Thượng (HT) Thiện Tràng (chùa Long Minh-TDM), HT Thiện An, thầy Thiện Linh (chùa Bửu Phước Phú Giáo), HT Quảng Viên (chùa Hội Khánh-Thủ Dầu Một)…Qua các thời kỳ, có nhiều vị bị tra tấn, tù đày, hy sinh như: HT Minh Nguyệt bị Pháp đem xử tử tại An Thạnh – Lái Thiêu, Sư Thiện Linh (chùa Bửu Phước) hy sinh năm 1947, sư Trần Văn Sửu (chùa Phước An – Phú Hòa) hy sinh năm 1948, thầy Thiện Quì (chùa Thanh Sơn- Tân Uyên) hy sinh năm 1948, Thầy Trí Minh (chùa Long Thắng – Tân Uyên), thầy Quảng An (chùa Thanh Sơn – Tân Uyên) bị tù đày Côn đảo…
Trong thời kỳ này, hầu hết các ngôi chùa tại Bình Dương đều tích cực tham gia phong trào yêu nước như chùa Bửu Nghiêm – Thủ Dầu Một là điểm tập tập hợp làm Hội quán Thanh niên Tiền Phong, chùa Long Thắng – Tân Uyên, do thầy Trí Minh trụ trì trở thành cơ sở cách mạng, chùa Châu Thới là nơi hội họp của các phong trào yêu nước, chùa Hưng Long – Tân Uyên đào hầm nuôi giấu cán bộ cách mạng…
Hội Phật giáo cứu quốc Thủ Dầu Một mang nét đặc thù riêng, bên cạnh sự cống hiến, hy sinh là cả một quá trình chuẩn bị bài bản mang tính chiến lược phục vụ kháng chiến lâu dài, đáp ứng được nhu cầu của phong trào kháng chiến đương thời.108
* Giáo hội Lục hòa Tăng Việt Nam (1952) và Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam (1969)
Bên cạnh các tổ chức giáo hội mang tính truyền thống của Phật giáo, thì sự hình thành của Giáo hội Lục hòa Tăng Thủ Dầu Một mang đậm nét đặc thù của Phật giáo Bình Dương. Trước tình hình thực dân Pháp ngày càng hung hãn càn quét chính quyền cách mạng, tổ chức Phật giáo cứu quốc Nam bộ buộc phải chuyển hướng và thay đổi hoàn toàn phương châm hành động theo hình thức công khai hợp pháp. Trong thời điểm này, Hội Phật giáo cứu quốc đã tuyên bố tự giải tán, chỉ để lại đại diện của Phật giáo trong các cấp Mặt trận Liên Việt.
Sau một thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi phương diện, tháng 2 năm 1952 các vị lãnh đạo và chư Tôn đức trong Hội Phật giáo cứu quốc Nam bộ đã quy tập về chùa Long An (136 đường Cộng Hòa) mở hội nghị tăng già thành lập Giáo hội Lục hòa Tăng Việt Nam và bầu ra Ban Trị sự Hội gồm các vị: Hòa Thượng (HT) Thiện Tòng (đệ tử HT Từ Văn) làm Tăng trưởng, HT Pháp Nhạc (chùa Long An) làm Phó tăng trưởng, HT Huệ Thành phụ trách công tác hoằng pháp lợi sanh… Một thời gian sau đó trụ sở dời về chùa Giác Lâm, đồng thời mở trường Phật học Lục hòa nằm cạnh chùa Giác Viên (Gia Định) và cho xuất bản tạp chí Phật học.109
Để cho phù hợp với tình hình tham gia các hoạt động và phong trào yêu nước, nên Giáo hội Lục hòa Tăng phát sinh ra hai tổ chức trực thuộc, hoạt động theo tôn chỉ định hướng của Giáo hội Lục hòa Tăng Việt Nam, đó là Hội Lục hòa Tăng do HT Thành Đạo làm Hội trưởng, HT Huệ Thành làm Tăng giám, HT Thiện Hương (chùa Hội Khánh) làm Đệ nhất Phó Tăng giám Trung Ương, và song hành với đó là Hội Lục hòa Phật tử do HT Minh Thành làm Chánh Hội trưởng, HT Thiện Hào làm Phó Hội trưởng. Trụ sở đặt tại chùa Long Vân (Bình Hòa, Gia Định).
Được thành lập vào tháng 2 năm 1952, nhưng đến năm 1957, Giáo hội Phật giáo Lục hòa Tăng mới chính thức được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa hợp thức hóa công nhận tại Quyết định số 93/BNV/NA/P5, Bộ Nội Vụ ký ngày 01.10.1957 (do HT Thiện Tòng đại diện xin phép thành lập Giáo hội Lục hòa Tăng Việt Nam). Hội có điều lệ gồm 9 chương 44 điều. Ban chức sự lâm thời lúc bấy giờ gồm có: HT Thiện Tòng (chùa Trường Thạnh) làm Đại Tăng trưởng, HT Thành Đạo (chùa Phật Ấn) làm Tăng giám, HT Thiện Đức (chùa Thiên Tôn) làm Phó Tăng giám. Cũng trong năm này, HT Đức Lâm Phó Tăng trưởng Lục hòa Tăng Đô thành – Sài Gòn bị bắt đày ra Côn Đảo.
Thông qua hai tổ chức Giáo hội này, kể từ đây, ảnh hưởng của Phật giáo mang tinh thần cứu quốc ngày càng được nâng cao và mở rộng khắp các tỉnh thành tại Nam bộ. Năm 1969 hai tổ chức này hợp nhất hình thành Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam (Phật giáo Cổ truyền và sau gọi là Phật giáo Cổ truyền Lục hòa Tăng và Lục hòa Phật tử)110. Tông chỉ của Hội đoàn kết trên tinh thần Lục hòa cộng trụ, truyền bá chánh pháp, gìn giữ truyền thống yêu nước bảo vệ dân tộc, trụ sở đặt tại Tổ đình chùa Hội Khánh. Suốt thời gian thành lập đến năm 1970, Hội đã tổ chức 15 khoá học giáo lý cho Tăng chúng, ngoài ra còn tổ chức các buổi giảng kinh cho trên 1.000 tín đồ Phật tử. Và truyền thống tốt đẹp này vẫn được HT Huệ Thông (trụ trì Tổ đình chùa Hội Khánh) duy trì cho đến nay.
Thông qua các phong trào tổ chức yêu nước của Phật giáo Bình Dương chúng ta thấy rằng Phật giáo đã có những đóng góp to lớn trong vận mệnh dân tộc nói chung, vận mệnh Phật giáo nói riêng. Điều này được thể hiện chân thực qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
C. KẾT LUẬN
Cốt tủy của đạo Phật là dân chủ, từ bi và hỷ xã nó dễ dàng đi sâu vào tâm thức của người dân Đại Việt nên nói: “Bình minh lịch sử dân tộc ta cũng gắn liền với Phật giáo”. Chúng ta thấy rõ đạo Phật đã thấm vào văn minh người Việt tự nhiên, dễ dàng như nước thấm vào lòng đất. Người dân Việt xem Phật giáo là một hệ tư tưởng để chống lại tư tưởng bành trướng và đồng hóa người Việt của Trung Quốc. Việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo luôn gắn liền với việc nghiên cứu lịch sử dân tộc, nhằm thấy được sự gắn bó giữa đạo pháp và người dân Việt. Hơn 2000 năm từ lúc lập quốc đến nay Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm, biến động trong suốt tiến trình đó Phật giáo Việt Nam luôn gắn bó khăng khít, cùng với vận mệnh của dân tộc. Chúng ta thấy rằng khi đất nước thanh bình, thịnh trị, phồn vinh thì Phật giáo cũng phát triển hưng thịnh; khi đất nước bị nô lệ, suy yếu thì Phật giáo cũng suy vi và ngược lại.
Những giá trị nhân văn đạo đức sâu sắc cùng những giá trị văn hóa tư tưởng cao quý của đạo Phật đã lan tỏa ảnh hưởng tích cực đến quan niệm, tư tưởng, đạo đức, lối sống của người dân Việt. Những yếu tố lịch sử hình thành, phát triển của dân tộc và Phật giáo khẳng định Phật giáo luôn đồng hành, phục vụ thiết thực cho sự phát triển dân tộc, của đất nước. Điều này thể hiện tinh thần nhập thế, phát triển của đạo Phật qua phương châm: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.
_Chú thích:
71 Người Việt đi học tại nước Chu, do tài năng nên khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi cho ông giữ chức Tư Lệ Hiệu Uý, uy danh vang đến Hung Nô; Khi Tần Hủy Hoàng đánh Âu Lạc ông lại trở về nước để chống lại quân Tần.
72 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 1-4, Viện Sử học dịch (1993), Nxb. KHXH, Hà Nội.
73 Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr. 32.
74 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 4, Viện Sử học dịch (1993), Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 36-38.
75 Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb. TP Hồ Chí Minh.
76 Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr. 115.
77 “Vạn Hạnh thông ba cõi, lời ông nghiệm sấm thi. Quê hương làng Cổ Pháp, chống gậy trấn kinh kỳ”; Viện Văn Học (1997), Thơ văn – Lý Trần, tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 432 – 433.
78 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 4, Viện Sử học dịch (1993), Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 81.
79 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 3, Viện Sử học dịch (1993), Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 107-110.
80 Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb. TP Hồ Chí Minh.
81 Lâm Huệ Sinh đã theo vua Lý Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1069; Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
82 Trần Thái Tông, Trần Thái Tông toàn tập, Lê Mạnh Thát dịch (2004), Nxb. Tổng hợp TP. HCM.
83 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 5, Viện Sử học dịch (1993), Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 169.
84 Viện Văn Học (1997), Thơ văn – Lý Trần, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 30.
85 Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr. 186.
86 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 5, Viện Sử học dịch (1993), Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 172.
87 Hoàng Khôi (biên dịch) (1970), Nguyễn trãi toàn tập, Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 319-327.
88 Hoàng Khôi (biên dịch) (1970), Nguyễn trãi toàn tập, Nxb. Văn hóa thông tin.
89 Lê Mạnh Thát (2005), Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài, Nxb. Tổng hợp TP.HCM, tr. 359.
90 Thích Thiện Hoa (1980), Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, TP.HCM.
91 Thích Huệ Thông (2019), Lược sử Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam, Nxb. Văn hóa văn nghệ, tr. 47.
92 Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (2007), Tiến Trình Lịch Sử Việt Nam, Nxb. Giáo Dục, tr. 212.
93 Lê Cung (2013), 50 năm nhìn lại phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam (1963-2013), Nxb. Đại học Huế, tr. 73.
94 Thích Nhật Từ chủ biên (2020), Phật giáo vùng Nam Bộ trong thế kỷ XX, Nxb. Hồng Đức, tr. 365.
95 Thích Đồng Bổn (chủ biên), Những tư duy đa chiều trong Phật giáo, Nxb. Hồng Đức, tr. 153.
96 Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb. Văn học Hà Nội, tr. 207.
97 Dương Thanh Mừng (2022), Phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng.
98 Lê Cung (2013), 50 năm nhìn lại phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam (1963-2013), Nxb. Đại học Huế, tr. 75-76.
99 Thích Huệ Thông (2002), Phật giáo Tiền Giang lược sử và những ngôi chùa, Nxb. TP.HCM, tr. 422.
100 Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb. Văn học Hà Nội, tr. 215.
101 Tran Thanh Hung (1978), Buddhism and Politics in Southeast Asia (Luận án Tiến sĩ), Michigan, USA, tr. 319.
102 Thích Huệ Thông (2019), Lược sử giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, Nxb. Văn hóa văn nghệ TP. HCM, tr. 94-97.
103 Trương Tấn Phát (1929), Phật hóa tân thanh niên, Nxb. Thạnh Thị Mậu, tr. 35.
104 Thích Đồng Bổn chủ biên (2002), Tiểu sử các danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, Nxb. Tôn giáo, tr. 36.
105 TS. Huỳnh Ngọc Đáng, Hội lục hòa liên xã trong dòng chảy lịch sử giáo hội Phật giáo cổ truyền việt nam.
106 Nguyễn Đắc Hiền (chủ biên, 1994), Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Đồng Tháp: Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, Nxb. Tôn giáo, tr. 119.
107 Chúng đệ tử đời thứ ba Tây Tạng tự (2015), Thiền sư Nhẫn Tế 80 năm kỷ niệm Tây du Phật quốc, Nxb. Tôn giáo, tr.13.
108 Thích Nhật Từ chủ biên, Phật giáo tại các tỉnh và Thành phố tại vùng Nam bộ, Nxb. Tôn giáo, Tr. 126-127.
109 Thích Huệ Thông (2019), Lược sử giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam, Nxb. Văn hóa văn nghệ, tr. 160-164.
110 Thích Huệ Thông (2019), Lược sử giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam, Nxb. Văn hóa văn nghệ, tr. 196-199.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Đồng Bổn (chủ biên), Những tư duy đa chiều trong Phật giáo, Nxb. HồngĐức.
2. Thích Đồng Bổn chủ biên (2002), Tiểu sử các danh tăng Việt Nam thế kỷ XX,tập 2, Nxb. Tôn giáo.
3. Lê Cung (2013), 50 năm nhìn lại phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam(1963-2013), Nxb. Đại học Huế.
4. TS. Huỳnh Ngọc Đáng, Hội lục hòa liên xã trong dòng chảy lịch sử giáo hội Phật giáo cổ truyền việt nam.
5. Nguyễn Đắc Hiền (chủ biên, 1994), Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Đồng Tháp: Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, Nxb. Tôn giáo.
6. Thích Thiện Hoa (1980), Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, TP.HCM.
7. Tran Thanh Hung (1978), Buddhism and Politics in Southeast Asia (Luận án Tiến sĩ), Michigan, USA.
8. Hoàng Khôi (biên dịch) (1970), Nguyễn trãi toàn tập, Nxb. Văn hóa thông tin.
9. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội.
10.Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển 1-4, Viện Sử học dịch (1993), Nxb. KHXH, Hà Nội.
11.Dương Thanh Mừng (2022), Phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng.
12.Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (2007), Tiến Trình Lịch Sử Việt Nam, Nxb. Giáo Dục.
13.Trương Tấn Phát (1929), Phật hóa tân thanh niên, Nxb. Thạnh Thị Mậu.
14.Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
15.Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb. TP Hồ Chí Minh.
16.Lê Mạnh Thát (2005), Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài, Nxb. Tổng hợp TP.HCM.
17.Thích Huệ Thông (2019), Lược sử Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam, Nxb. Văn hóa văn nghệ.
18.Thích Huệ Thông (2002), Phật giáo Tiền Giang lược sử và những ngôi chùa, Nxb. TP.HCM.
19.Trần Thái Tông, Trần Thái Tông toàn tập, Lê Mạnh Thát dịch (2004), Nxb. Tổng hợp TP. HCM.
20.Thích Nhật Từ chủ biên, Phật giáo tại các tỉnh và Thành phố tại vùng Nam bộ, Nxb. Tôn giáo.
21.Thích Nhật Từ chủ biên (2020), Phật giáo vùng Nam Bộ trong thế kỷ XX, Nxb. Hồng Đức.
22.Chúng đệ tử đời thứ ba Tây Tạng tự (2015), Thiền sư Nhẫn Tế 80 năm kỷ niệm Tây du Phật quốc, Nxb. Tôn giáo.
23.Viện Văn Học (1997), Thơ văn – Lý Trần, tập 1, 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.