Giáo dục Phật giáo là dạy cho con người phương pháp thoát khổ (ĐĐ. Thích Trí Chơn)

TẢI FILE PDF
—————–

          I. Dẫn Nhập

          Khi Đức Phật mới thành đạo, điều đầu tiên nghĩ đến đó là tìm phương pháp chỉ dạy cho mọi người, mọi loài cùng đạt đến giải thoát khổ đau như chính Ngài. Để con đường diệt khổ mà Ngài đã tìm ra được lan truyền rộng rãi, Ngài đã thiết lập Tăng đoàn. Trong Tăng đoàn Nguyên thủy ấy, phần nhiều là những bậc chứng ngộ đạo lý giải thoát của Phật, họ lại tiếp tục làm công việc truyền trao phương pháp tỉnh thức đến với mọi người, mọi loài. Khi được tiếp xúc với Phật và Tăng đoàn, phần nhiều mọi người đạt được giải thoát đau khổ, sống đời an lạc.

          Trải hết cuộc đời của Phật, chúng ta nhìn lại, Ngài chỉ làm một việc duy nhất đó là giáo dục; giáo dục con người sống đời tỉnh thức. Đời sống có sự tỉnh thức là đời sống không có khổ đau. Con người có sự tỉnh thức là con người sống không có lỗi lầm. Người tỉnh thức thì gọi là Phật. Con đường đưa ta trở về với đời sống tỉnh thức gọi là đạo Phật. Việc hướng dẫn mọi người trở về với đời sống tỉnh thức thì gọi là Phật giáo, nghĩa là giáo dục mọi người sống theo nếp sống của Phật.

          Từ đây ta có thể thấy, giáo dục trong Phật giáo tức là đào tạo con người có đời sống tỉnh thức – không phạm sai lầm – thoát khỏi hệ lụy dẫn đến khổ đau; đây chính là giải thoát mà nhà Phật hướng đến.

          Thế thì, với đời sống của người xuất gia, được mệnh danh là “xứ giả Như Lai”, trước tiên ta phải được học và thực tập phương pháp sống đời “tỉnh thức” để tự thoát khỏi những sai lầm hệ lụy, chấm dứt khổ đau. Khi tự thân đã có chất liệu giải thoát, thông qua thân, khẩu và ý ta truyền trao cho mọi người phương cách để “chuyển mê khai ngộ”, “Ly khổ đắc lạc”. Việc làm đó được gọi là Hoằng pháp. Và đó cũng chính là việc làm căn bản nhất của công việc Giáo dục Phật giáo.

          II. Nội Dung

          1. Khổ đau và cách giả quyết đau khổ

          Khổ, nó là tiếng thở dài muôn kiếp của loài người nói riêng và vạn loại hàm linh trên trái đất này nói chung. Khổ là một trạng thái bất như ý của tâm tưởng, được tạo ra bởi những tâm hành mà phần lớn là do tham, sân và si thúc đẩy. Như lời Phật dạy thì, cái khổ chung quy được thấy rõ ràng nhất qua các hiện trạng là sanh, già, bệnh và chết. Đây có thể được xem là bốn yếu tố căn bản làm nên nổi thống khổ cho nhân sinh. Ngoài ra còn có vô vàn những thống khổ khác mà chúng ta có thể sơ lược ra một số như sau: khổ vì thương nhau mà không đến được với nhau (ái biệt lý khổ); Khổ vì ghét nhau mà phải chung sống với nhau (oán tấn hội khổ); Khổ vì cầu mong mà không được toại ý (cầu bất đắc khổ); Khổ vì năm yếu tố sắt, thọ, tưởng, hành và thức chống trái nhau (ngũ ấm xí thạnh khổ). Và còn vô vàng nổi bất như ý khác từ nội tại cho đến ngoài tại làm cho đời sống vô cùng bất an, đầy lo lắng, đó chính là khổ.

          Thái tử Siddhatta, mặc dù có đời sống vô cùng đủ đầy về cả tinh thần lẫn vật chất, đời sống của Ngài có thể nói là rất ít sự bất như ý so với người thường. Nhưng với tuệ giác của một người có lối sống trầm tỉnh, dành thời gian nhiều cho những câu hỏi về nhân sinh như là: “Làm sao ta có thể không khổ đau vì sanh, già, bệnh, và chết? Làm sao để con người đến với nhau bằng tình thương mà không phải đến với nhau vì hận thù và nghi kỵ? Làm sao để giúp mình, giúp người, và giúp mọi loài chấm dứt đau khổ? Vân vân…” Đây chính là động lực đã mở lối đưa đường cho Ngài quyết tâm từ bỏ vương vị vượt thành xuất gia.

          Hành động này có thể nói là cuộc cách mạng lớn của nhân loại, bởi lẽ, từ ngàn xưa, ai cũng chịu các quy luật khắc nghiệt tạo nên nổi thống khổ chung này. Nhưng khi đối mặt với nó, phần nhiều chỉ biết than trách và đổ lỗi. Kẻ yếu hèn thì than thân trách phận, kẻ mạnh mẽ thì than trời trách đất. Còn sống với gia đình khi khổ đau thì đổ cho cha mẹ, người thân. Lớn lên ra bôn ba với đời gặp cảnh bất như ý, khổ đau thì đổ cho hoàn cảnh xã hội…Khi hết người để đổ thì quy trách nhiệm cho trời.

“Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”

(Truyền Kiều – Nguyễn Du)

          Cụ là nhà Nho nên tất cả đều do trời, còn người nhà Phật thì thường đổ cho nghiệp. Đổ cho trời, hay đổ cho nghiệp chung quy cũng chỉ nói lên sự thiếu trách nhiệm với cái khổ mà mình đang chịu thôi.

          Thậm chí có người khi đối diện với nổi khổ, họ trở nên chán nãn, bi thương tìm mọi cách để trốn chạy. Chế Lan Viên trong tác phẩm Sợi Tơ Lòng khi gặp phải chuyện bất như ý, khổ đau, tác giả chỉ muốn đi tìm một nơi nào đó mà không có bóng người để đừng ai làm khổ mình nữa!

“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh

Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!

Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh

Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!”

          Hoặc “Kiếp sau xin chớ làm người /Làm cây thông đứng giữa trời mà reo” (Vịnh cây thông – Nguyễn Công Trứ).

          Thế đấy, đó là thói thường của con người khi đối diện với điều bất như ý trong cuộc đời. Đây không phải là cách hành xử của người xưa thôi, mà nó là mẫu số chung của tất cả chúng ta, khi chưa đủ duyên đến với đạo lý Nhà Phật. Nói cách khác, nó sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người chưa biết “sống đời tỉnh thức”.

          Thái tử Siddhatta đã đi ngược lại với thói đời; khi đối diện với khổ đau, Ngài dốc lòng đi tìm nguyên nhân gây ra đau khổ, sau đó tìm phương pháp chuyển hóa và cuối cùng là trở về trạng thái an lạc – hạnh phúc. Với phương pháp này, thái tử Siddhatta đã thành công tuyệt đối. Mở ra con đường sáng cho nhân loại, cho những ai muốn đạt được an lạc hạnh phúc, chấm dứt mọi ràng buộc khổ đau ngay đời sống hiện tại mà không cần phải trốn chạy ở một nơi nào khác. Con đường ấy chính là Đạo Phật; Đạo của tình thương và của sự hiểu biết.

          2. Giáo dục Phật giáo là dạy con người biết“sống đời tỉnh thức” thông qua đờisống của  tự thân

          Sau khi thành đạo dưới gốc cây Bồ đề, Phật nghĩ đến chuyện đi giảng dạy. Vì Ngài biết việc tu hành không nhắm giải thoát cho riêng mình, mà còn giải thoát cho mọi người và những loài chúng sinh khác. Phật lưu lại nơi cây bồ đề một thời gian khá lâu, nhiều tuần lễ, để chứng nghiệm trạng thái an lạc, tự do của người đạt đạo. Đồng thời Ngài cũng nghĩ cách mang tuệ giác của mình hiến tặng cho mọi người, trong đó sẽ có cha mẹ, có những người thân, và những người đang đau khổ hoặc sẽ đau khổ. Trong thời gian đó Phật ở trong Xóm Uruvela, tiếp xúc với người dân trong Xóm, người lớn cũng như trẻ con. Ngài chia sẻ những điều chứng ngộ của mình với các thí chủ nuôi Ngài trong những tuần lễ đó.

          Bài pháp thoại chính thức đầu tiên Ngài đã giảng ở một khu vườn gọi là Vườn Nai, Lộc Uyển, phía bắc thành Ba la nại (Benares). Ngài giảng cho năm người bạn tu khổ hạnh cũ của Ngài, trong đó có Kiều Trần Như, Kondanna. Lúc đầu Ngài muốn tìm gặp hai vị thầy cũ của mình. Vì Ngài nghĩ nếu gặp những vị thầy từng dạy mình về tứ thiền, tứ vô sắc định, thì có thể giúp họ đạt tới quả vị A La Hán rất nhanh chóng. Nhưng sau khi thăm hỏi, Ngài biết cả hai vị thầy đều viên tịch, cho nên Ngài nghĩ tới năm người bạn đã cùng tu khổ hạnh với Ngài trước đây. Trước đây khi thấy Ngài bỏ lối tu khổ hạnh và bắt đầu ăn uống trở lại bình thường thì họ rất buồn. Họ cho là Ngài đã thoái chí, bỏ cuộc, nên họ lìa bỏ Ngài mà đi. Nghĩ có thể giúp họ được nên Ngài vượt sông lên miền Bắc tìm tới Vườn Nai. Khi Phật tới, năm người bạn cũ không muốn gặp. “Chính Siddhatta này trước đã bỏ cuộc, bây giờ còn tới đây làm gì?” Vì thế họ không chào đón, niềm nở như ngày xưa. Nhưng lúc nhìn thấy dáng điệu, phong thái của Ngài khi bước vào, họ không thể tiếp tục thờ ơ được. Rồi người nào cũng tự động ra tiếp đón vồn vã. Người thì lấy nước cho Ngài rửa chân, người thì cầm giúp bình bát cho Ngài, người thì đỡ áo cho Ngài, và mọi người ngồi xuống chung quanh Ngài. Lúc này Ngài bắc đầu thuyết pháp chỉ dạy cho những người bạn đồng tu cũ của mình, kết quả là đã giúp họ chứng được đạo giải thoát một cách nhanh chóng.

          Qua hình ảnh này ta thấy, với những định kiến của các bạn đồng tu cũ, họ đã từ trạng thái nghi ngờ bất phụ, chuyển sang trạng thái quý kính và tràng đầy niềm tin để lãnh thọ giáo pháp giải thoát từ Phật. Sự kiện này xảy ra bởi oai đức tỏa ra từ dáng đi, cách hành xử của Ngài. Cho nên, người làm công tác giáo dục Phật giáo trước hết phải có đời sống vững chãi; tỏa ra chất thong dong, tự tại và thảnh thơi gọi là thiền vị, hương vị của thiền. Nếu chưa đạt được điều này thì dù kinh điển, giáo lý, lý thuyết có giỏi bao nhiêu cũng khó có thể khiến người khác tiếp nhận giáo pháp, để đạt được sự chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc như tiêu chí của một người tu đạo và hướng đạo đã đề ra.

          3. Đào tạo tu sĩ chính là đào tạo con người biết cách làm việc với đất tâm

          Trong kinh Tăng nhất A Hàm quyển 5, kinh thứ 5 và 6 thuộc Hán Tạng, Phật có nói: “Này các vị khất sĩ, không có một sự vật nào khi không được điều phục mà có thể đem lại nhiều đau khổ như tâm của chúng ta. Này các vị khất sĩ, không có vật nào khi đã được điều phục và chế ngự mà lại có thể đem lại nhiều hạnh phúc như tâm của chúng ta”.

          Vì vậy tu học có nghĩa là điều phục tâm, làm việc với tâm. Trong văn học Nikaya tức kinh Pali, tưong đương với đoạn kinh trên là Kinh Samyutta Nikaya , phẩm thứ nhất, Kinh số 6. Bản dịch như sau: Này các vị khất sĩ, ta không thấy một Pháp nào đưa đến bất lợi như là tâm không được điều phục. Tâm không được điều phục, này các vị khất sĩ, đưa tới những bất lợi rất lớn”. Vậy thì ý kinh cũng giống như Kinh Tăng nhất A Hàm. Sau đó Kinh được tóm tắt lại bằng câu: “Ta không thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, có thể đưa đến bất lợi lớn như là tâm không được điều phục, không được hộ trì, không được phòng hộ, không được bảo vệ. Tâm không được điều phục, không được hộ trì, không được phòng hộ, không được bảo vệ, này các vị khất sĩ, sẽ đưa đến những bất lợi lớn”.

          Bất lợi lớn ở đây có nghĩa là những đau khổ cho chính bản thân và cho những người chung quanh. “Ta không thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, có thể đưa đến lợi ích lớn như là tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ. Tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ, này các vị khất sĩ, sẽ đưa đến những lợi ích lớn”.

          Lợi ích lớn ở đây là hạnh phúc cho chính mình và cho những người chung quanh. Khi tu, ta tu với cái tâm của ta, nghĩa là ta điều phục, bảo vệ, và hộ trì cái tâm của ta. Từ đây nhìn lại, hiện tại ta có đang thực sự đưa ra con đường giáo dục cho thế hệ trẻ của Phật giáo bằng những phương pháp có tính chất điều phục tâm, phòng hộ tâm và bảo vệ tâm chưa? Đây là câu hỏi mà tất cả những ai đang và sẽ làm công tác giáo dục Phật giáo điều phải mạnh dạng nhìn thẳng để tự có câu trả lời thỏa đáng.

          4. Khóe dùng phương tiện

          Như những gì đã nêu trên, mục đích của việc giáo dục Phật giáo chính là dạy cho con người biết đối diện với khổ để thoát khổ bằng cách sống đời tỉnh thức, biết hộ trì tâm, bảo hộ tâm và điều phục tâm. Mục đích đã là như vậy thì tất cả phương tiện (phương pháp hành trì và phương cách hành đạo) đều phải mang trong mình bản chất ấy.

          Trong thời đại ngày nay, mạng lưới toàn cầu đang phát triển cực mạnh. Cái mà ta gọi là thời đại 4.0. Đây là phương tiện để ta kết nối con người với con người một cách nhanh chóng và rộng rãi. Sự kết nối nhanh chóng này giúp ta chia sẻ sự vững chãi thảnh thơi hay nói khác hơn là đời sống an lạc của một tu sĩ được đi xa và đi nhanh. Nhưng với điều kiện là người tu sĩ này đã được đào tạo kỹ lưỡng, đã có chất liệu của đời sống tỉnh thức; người biết phòng hộ tâm và làm chủ tâm. Thiết nghĩ, người làm công tác giáo dục Phật giáo là người cống hiến cho đời những “sản phẩm mang chất liệu bình an”. Khi có sản phẩm tốt rồi, chúng ta mượn phương tiện của thời đại để chuyển đến cho mọi người một cách nhanh chóng và toàn diện.

          Khi nói đến phương tiện thì ta phải hiểu cho được phương tiện để làm gì? Và phương tiện đó phải được trao cho người nào và không trao cho người nào? Cũng là súng, nếu đưa cho người thương nước thương dân thì nó chính là phương tiện mang lại bình an cho xã hội. Còn ngược lại trao cho kẻ cướp thì nó lại là câu chuyện của sự bất an. Là kẻ trí – người có trách nhiệm thì ta không thể cứ có súng là mang ra phân phát cho tất cả mọi người một cách tùy tiện, vô tội vạ như thế được.

          Cũng thế, chúng ta sống trong thời đại này không thể ngăn cấm người tu sĩ trẻ tiếp xúc với thế giới bên ngoài; câu chuyện ở đây là ta nên chú trọng đến việc hướng dẫn tu sĩ trẻ biết cách vận dụng phương tiện thật khôn khóe. Có như vậy, việc giáo dục Phật giáo mới thật sự mang đến lợi ích cho tự thân và cho xã hội

          I. Kết Luận

          Người làm công tác giáo dục trong Phật giáo là mẫu người biết sống đời tỉnh thức. Sống ít khổ đau và không mang lại hệ lụy đau khổ cho người chung quanh. Đặc biệt hơn, đây chính là người trao truyền và lan tỏa đời sống an lạc theo tinh thần nhà Phật; Người đào tạo ra đội ngũ đi dạy đạo thức cho đời. Vì thế, người làm công tác giáo dục trong Phật giáo trước hết phải là người có trái tim đầy tình thương và một bọ óc đầy hiểu biết. Đây chính là hai chất liệu để làm nên Phật và làm nên đạo Phật. Đây cũng chính là câu trả lời cho tất cả những ai muốn đi tìm con đường giải thoát khổ đau. Và nó cũng chính là mục tiêu duy nhất cho việc công giáo dục Phật giáo./.