TIỂU SỬ PHAN HUY ÍCH
Phan Huy Ích (1751-1822) tự là Dụ Am, người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An, nay là tỉnh Hà Tĩnh. Về sau chuyển ra Bắc, làng Sài Sơn (tức làng Thầy), phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông trước có tên là Phan Công Huệ, vì kiêng húy bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ, vợ của chúa Trịnh Sâm, nên mới đổi tên là Phan Huy Ích. Ông là con đầu của Tiến sĩ Phan Huy Cẩn (1722-1789), thuở nhỏ theo học cha, lớn lên theo học Ngô Thì Sĩ, vợ là em ruột Ngô Thì Nhậm.

Phan Huy Ích đỗ đầu kỳ thi Hương ở trường Nghệ An năm 22 tuổi. 26 tuổi, thi Hội đỗ Hội nguyên, rồi vào thi Đình, đỗ Đồng tiến sĩ. Bốn năm sau (1779), người em ruột của ông là Phan Huy Ôn (1755-1786) cũng đỗ Tiến sĩ, ba cha con cùng đỗ đại khoa, cùng làm quan một triều. Phan Huy Ích sau khi đỗ Tiến sĩ được chúa Trịnh Sâm ủy nhiệm vào Quảng Nam trao ấn kiếm và phong chức cho Nguyễn Nhạc (? – 1793), lúc này còn quy thuận chúa Trịnh ở ngoài Bắc để dồn sức đánh chúa Nguyễn trong Nam. Sau đó, ông được bổ chức Đốc đồng trấn Thanh Hóa, rồi được triệu về kinh, giữ việc hình ở Phủ chúa… Năm 1786, được bổ làm Tán lý quân vụ Thanh – Nghệ để chống với quân Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông bị Nguyễn Hữu Chỉnh đánh bại và bắt được. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh không trả thù, mà lại xin vua bổ ông vào làm việc ở Tòa Hàn lâm. Năm 1788, Nguyễn Huệ (1753-1792) kéo quân ra Bắc lần thứ hai, chiếm được toàn bộ Bắc Hà. Trong số các danh thần của nhà Lê, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích là những người đầu tiên ra cộng tác với Nguyễn Huệ. Ông nhận lời vào Phú Xuân dự lễ tấn tôn Quang Trung, được bổ làm Thị lang Bộ Hình và cùng Ngô Thì Nhậm chuyên lo việc ngoại giao với nhà Thanh.
Năm 1792, Phan Huy Ích được phong tước Thụy Nham hầu, thăng Thị trung Ngự sử ở Tòa Nội các. Dưới triều vua Cảnh Thịnh (nhà Tây Sơn) ông vẫn giữ chức này. Năm 1800, khi Nguyễn Ánh (1762-1819) chiếm Phú Xuân, Cảnh Thịnh (1783-1802) chạy ra Bắc Thành, Phan Huy Ích được giữ chức Thượng thư Bộ Lễ. Chẳng bao lâu nhà Tây Sơn đổ, Gia Long lên ngôi. Phan Huy Ích cùng Ngô Thì Nhậm bị tống giam và bị Tổng trấn Bắc Thành ra lệnh đánh đòn trả thù trước Văn Miếu. Ngô Thì Nhậm đau rồi chết; Phan Huy Ích sau đó về quê mở trường dạy học. Dưới thời nhà Nguyễn, ông không giữ một chức vụ gì.
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Về văn thơ, Phan Huy Ích sáng tác rất nhiều, cả Hán lẫn Nôm. Ông tự góp lại thành hai tập Dụ Am ngâm lục (Tập thơ Dụ Am) và Dụ Am văn tập (Tập văn Dụ Am), làm trong khoảng thời gian từ năm 1778 đến năm 1814, chủ yếu là những năm dưới triều Tây Sơn. Thơ có khoảng 600 bài, văn có khoảng 400 bài gồm đủ các thể như chiếu, biểu, tấu, thư, văn tế, văn bia, bạt… Tác phẩm của ông thường có đề năm tháng sáng tác, và được xếp theo thứ tự thời gian. Ngoài ra ông còn là một dịch giả bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, mà người diễn Nôm đầu tiên là Đoàn Thị Điểm.

Phan Huy Ích là một trong những tác gia văn học tiêu biểu của văn học thời Tây Sơn. Về thơ, những sáng tác dưới thời Tây Sơn của ông toàn bằng chữ Hán. Đáng chú ý hơn cả là tập Tinh sà kỷ hành gồm những bài thơ ghi lại chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1790, ông cùng Ngô Văn Sở hộ tống Hoàng đế Quang Trung giả sang dự lễ mừng thọ vua Thanh và nối lại tình hòa hiếu giữa hai nước. Nhiều bài thơ của ông thể hiện sự lo lắng của tác giả làm sao cho chuyến đi đạt được kết quả mong muốn.
Năm 1978, Ban Hán Nôm thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam xuất bản ba tập thơ của Phan Huy Ích với hơn ba trăm tác phẩm, trong đó có gần hai mươi bài thơ viết về thiền Phật. Đây cũng là những bài thơ tiêu biểu viết về đề tài Phật giáo của ông.
Bài thơ Đường luật Quá Tây Phương sơn tự (Qua chùa núi Tây Phương):
Ngẫu tầm phong thuỷ quá thôn trang,
Ẩn ẩn tiền sơn kiến thượng phương.
Cát lệnh dư sa đôi xích nhưỡng,
Phạm lâm cô viện ỷ u hoàng.
Cư tăng độc chiếm yên hà bạn,
Phù thế tương khu khối lỗi trường.
Hà nhật ngâm cung lăng tuyệt đỉnh,
Tùng âm bả trản miểu thương mang.
Dịch nghĩa:
Đi tìm phong thuỷ ngẫu nhiên qua miền thôn trang
Thấp thoáng thấy ngôi chùa ở phía trước núi
Đan sa còn dư của quan lệnh họ Cát, chất thành đống đất đỏ
Viện tu trơ vơ trong rừng Phạm, dựa vào đám trúc thanh u
Nhà sư một mình làm bạn cùng khói mây
Kiếp phù sinh xô đẩy nhau như trò múa rối
Ngày nào gậy thơ vượt lên đỉnh cao nhất?
Dưới bóng tùng nâng chén, ngắm khoảng mênh mông.
Ở bài Quá Tây Phương sơn tự này, ta thấy có đoạn thể hiện mối quan hệ Phật – Lão:
Cát lệnh dư sa đôi xích nhưỡng,
Phạm lâm cô viện ỷ u hoàng.
Cư tăng độc chiếm yên hà bạn,
Phù thế tương khu khối lỗi trường.
Có vẻ như, ở những câu thơ này, thiền tăng với lão tiên đã nhập thể làm một; lòng thi nhân đã hòa vào thể tâm tự tại của khói mây, không còn bận bịu với chốn bụi hồng. Ta thấy rõ Phan Huy Ích – một nhà nho nhưng không độc tôn Nho giáo, mà mềm mại trong cách ứng xử với các tôn giáo khác, thậm chí là vận dụng tư tưởng của Phật, Lão vào hoàn cảnh cụ thể trong cuộc đời, để có lối ứng xử phù hợp nhất với bối cảnh thời đại.
Khi đọc những bài thơ của Phan Huy Ích, ta thấy ông là người mộ Phật, gần gũi với tăng lữ, thấu triệt giáo lý nhà Phật và có lối ứng xử, suy tư về cuộc đời mang dấu ấn thiền Phật. Ở bài thơ Vãn Bằng Trình tự Hải Thanh thiền sư, Phan Huy Ích viết:
Nhị thập niên lai thức Hải Thanh,
Thiền duyên cửu trụ pháp vương thành.
Quy chân hốt bỉ hư vô quyết,
Quá cảnh nan câm cố cựu tình.
Mãn kính tài hoa lưu thế giới,
Hoàng giang tống quả cảm bình sinh.
Tuệ tăng công hạnh tầm di ký,
Tháp diện đài phong độc vị thành.
Qua bài thơ, Phan Huy Ích đã thể hiện mối quan hệ thâm giao với nhà sư Hải Thanh:
Nhị thập niên lai thức Hải Thanh,
Thiền duyên cửu trụ pháp vương thành.
Quy chân hốt bỉ hư vô quyết,
Quá cảnh nan câm cố cựu tình.
Dịch nghĩa:
Hai mươi năm nay biết Hải Thanh
Có duyên với thiền sư từ lâu, làm mẫu mực cho cửa Phật
Về cõi chân như, bỗng khép kín ấn quyết hư vô
Khi qua cảnh này khó ngăn được tình cố cựu.
Theo như bốn câu thơ này, thì nhà thơ và nhà sư Hải Thanh đã quen biết nhau 20 năm. Bài thơ này được viết năm 1785. Vậy xét theo năm sinh của Phan Huy Ích (1751), thì khoảng 14, 15 tuổi (1765), ông đã biết nhà sư Hải Thanh rồi. Điều này cho thấy, Phan Huy Ích từ nhỏ đã là một người mộ đạo, tiếp thu tinh thần Phật giáo khá sớm, lại được giao lưu với người tu hành. Hai câu thơ cuối bài này, tác giả viết:
Tuệ tăng công hạnh tầm di ký
Tháp diện đài phong độc vị thành.
(Công lao đức hạnh của vị cao tăng, muốn tìm những điều ghi lại
Mặt tháp rêu phủ, chưa đọc ra được).
Câu thơ không những ca ngợi công đức của Hải Thanh thiền sư mà còn nói đến sự thăng thoát của thiền sư, sự ngộ giải của thi nhân về cái vô – hữu theo quan niệm nhà Phật. Và việc “độc vị thành” – không đọc được, không thấy dấu vết của thiền sư, không thấy được công đức tu hạnh của bậc chân tu, chính là một sự giác ngộ. Tuy nhiên, khi đọc một số câu thơ trong Cúc thu bách vịnh (một thi tập trong Dụ Am ngâm lục của Phan Huy Ích) ta lại nhận thấy, việc thấu triệt thiền lí không hề đơn giản, và nó như là một thử thách, một đích đến mà con người luôn khao khát đạt được. Ví như hai câu thơ trong Bài 1 của Cúc thu bách vịnh:
Trúc Lâm thiền vị nghi sầm tịch,
Cảm phỏng sư ông nhiếp dưỡng phương.
(Mùi Thiền rừng trúc ưa thanh vắng
Dám hỏi sư ông cách tu thế nào?).
Hoặc như hai câu thơ ở Bài 2:
Thân vị đáo thiền nan khước tục,
Dục y cuồng tích mạc tri phương.
(Thân chưa tới cõi Thiền nào lánh tục
Muốn chữa bệnh cuồng si, chẳng biết phương?).
Vào cuối thế kỷ XVIII, chùa Thiên Mụ (Huế) lâm vào cảnh đổ nát, mãi đến năm 1814, thời Gia Long, chùa mới được xây dựng lại. Giai đoạn này đã được Phan Huy Ích điểm lại cảnh hoang tàn trong chuyến đi đến Phú Xuân qua bài thơ Phỏng Thiên Mụ tự chỉ tác (Thăm nền của chùa Thiên Mụ):
Sùng cương áp lãng thảo thông thanh,
Tĩnh giới yên hà thuộc liểu minh.
Hòa thượng am không từ địa dị,
Như Lai viện cổ trú loan đình.
Đài bi tàn triện già hành kính,
Bảo khánh di âm nhập cấm đinh.
Nhị thập niên tiền di lãm xứ,
Vãn dương tiếu xướng bất kham thinh.
Dịch thơ:
Ngăn sóng, đồi cao cỏ phủ dày
Chùa xưa hoang vắng khói hòa mây
Am Tăng, nền cũ, thành đàn tế
Điện Phật, lối nào, dấu nữa xe
Bia tạc chữ mờ, rêu phủ kín
Khánh quý tiếng còn giục khách mê
Hai mươi năm trước từng viếng cảnh
Chiều tà, tiều hát, chẳng buồn nghe.
Trong một lần đi sứ, chùa Phi Lai ở hẻm núi Ngung thuộc huyện Thanh Viễn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, có thác nước từ vách đá dựng đứng đổ xuống, gác cao soi bóng xuống dòng nước. Tương truyền đời nhà Lương, một đêm gió bão sấm chớp nổi lên dữ dội, rồi ngôi chùa xuất hiện, nhân đó đặt tên cho chùa là Phi Lai. Có câu chuyện nói về hai vua Ngung và con vượn trắng. Ngay ở gian giữa chùa có bàn thờ vua, có biển đề «vạn tuế». Một số sĩ phu nhà Thanh tiễn đưa, dẫn sứ bộ ta đến thăm chùa. Tới trước bàn hành lễ vái lạy, họ yêu cầu các sứ thần làm thơ. Phan Huy Ích viết xong bài thơ đưa cho viên Tổng đốc Quảng Đông; liền được họ sai thợ đá khắc bài thơ này trên vách núi chùa Phi Lai.

Bài thơ Đề Phi Lai tự (Đề chùa Phi Lai) như sau:
Sơn các sơ chung lạc thủy ôi,
Tường quang liễu nhiễu Phạm Vương đài.
Bộc tuyền nghi xuất tinh hà thủy,
Phi tư truyền vãn bán dạ lôi.
Địa tích cao tiêu Âu Việt ngoại,
Thiền gia thượng tổ Đạt Ma lai.
Tê phan cánh hỷ hồng vân cận,
Vạn tuế bài tiền dự phụng bôi.
Dịch thơ:
Gác núi chuông vang lạnh nước sông,
Phạm Vương đài sáng bóng từ quang.
Núi trào thác đổ dòng Ngân chảy,
Đêm Ngọc chùa bay tiếng sóng ầm.
Âu Việt nêu cao danh dấu tích,
Đạt Ma truyền xuống lối Thiền tông.
Gần đám mây hồng mừng thưởng cảnh,
Chén quỳnh vạn tuế muốn đem dâng.
Ngoài những bài thơ đã dẫn trên, Phan Huy Ích còn viết một số bài thơ khác về thiền Phật như: Kinh Kim Âu sơn tự, Đề Nhị Thanh động khắc thạch… Trong thời gian ở đất Bắc, Phan Huy Ích nghiên cứu Phật học, viết bài tựa cho tập sách Trúc Lâm tông chí nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm. Tháng 3 năm 1822, ông mất, thọ 72 tuổi.
Qua thơ Phan Huy Ích, ta thấy một thời đại lịch sử đầy biến động, và cũng thấy được một tâm hồn, nhân cách lớn – con người luôn “lấy nghĩa làm phương hướng”, muốn dốc lòng cho nước, cho đời. Những bài thơ viết về thiền Phật tuy không nhiều so với số lượng tác phẩm sáng tác của ông, nhưng đã thể hiện được sự sáng tạo trong thơ ca cũng như tư tưởng của ông và có giá trị nghệ thuật cao.