Tiết tháng bảy lại về, đất trời biến chuyển, những cơn mưa ngâu bắt đầu nặng hạt, lòng người cũng thổn thức xao xuyến như muốn hòa cùng đất trời. Ai trong mỗi người con Phật nói riêng hay người Việt Nam nói chung đều có một điều gì đó thổn thức trong tâm hồn đối với hai đấng sanh thành. Đừng đợi đến mùa Vu Lan, ta mới chợt nhớ quay về báo ân cha mẹ, đừng đợi đến lúc trên áo cài hoa trắng mới cảm thấy ray rứt, hối hận. Một năm chỉ có một ngày Vu Lan, nếu cứ đợi đến ngày rằm tháng bảy mới báo hiếu cha mẹ thì đó chỉ là báo hiếu trên danh nghĩa, còn người thật tâm yêu thương cha mẹ thì 365 ngày ngày nào cũng là ngày hiếu hạnh. Hiếu là thảo, là thuận là nhường là chia sớt, giúp đỡ, bảo hộ, chăm sóc. Từ ý nghĩa đó suy rộng ra, không chỉ thương kính cha mẹ mà đối với tất cả mọi người, trên kính dưới nhường, luôn ân cần hỏi thăm dù chỉ một câu nói, một hành động nhỏ cũng là biểu hiện của hiếu đạo theo tinh thần Phật giáo. Được như thế, không chỉ cha mẹ hiện tiền phúc thọ tăng long mà cha mẹ bảy đời cũng được siêu thăng.
HIẾU DƯỠNG CHA MẸ THEO TINH THẦN ĐẠO PHẬT
Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc, mười tháng mang thai, ba năm bú mớm, chỗ ướt mẹ nằm khô ráo phần con, thức khuya dậy sớm, nuốt đắng nhả ngọt, mong con lớn khôn. Ai đã từng làm cha làm mẹ đều không tránh khỏi những năm tháng kỉ niệm như vậy. Và trong chính mỗi người đều tự nguyện và hài lòng làm điều đó, đôi khi có mệt mỏi, bực nhọc, nhưng mọi thứ được xua tan khi nghe tiếng khóc oe oe, tiếng he he cười rộn rã của con. Theo năm tháng đến ngày con lớn khôn, cha mẹ lại lần nữa nhìn con bập bẹ nói cười, đi học với chúng bạn,… rồi theo thời gian con lớn lên từ từ. Đến đây, cha mẹ vẫn chưa hết dõi theo bóng dáng con, đến khi yên bề gia thất, lòng cha mẹ vẫn thấp thỏm lo lắng. Cả cuộc đời cha mẹ vẫn dõi theo mà những người làm con nào đâu hay biết.
Đúng với quy luật tự nhiên, dòng sông bao giờ cũng chảy xuôi chứ không bao giờ chảy ngược. Cha mẹ thương con nhưng hiếm khi con lại hiếu dưỡng cha mẹ đúng mực. Dẫu biết hiếu kính với cha mẹ là lẽ đương nhiên, hầu như bất cứ người con nào cũng biết niệm ân và báo ân sanh thành dưỡng dục, nhưng đó chưa phải là tận hiếu. Một thời Đức Thế Tôn trú tại Rajagaha, trên núi Gijjhakuta. Rồi Ngài lấy một ít đất trên đầu móng tay và bảo các Tỳ kheo:
“- Các ông nghĩ thế nào, này các Tỳ kheo, cái nào là nhiều hơn, một ít trên đầu móng tay hay là quả đất lớn này?
– Kính bạch Thế Tôn, cái nhiều hơn là quả đất này, còn ít hơn là đất trên đầu móng tay. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, ít hơn là các chúng sinh có hiếu kính với mẹ, với cha và nhiều hơn là các chúng sinh không hiếu kính với mẹ, với cha” [1].
Có thể nói, từ trong tâm khảm mỗi người, không ai là không thương kính cha mẹ. Nhưng để thực hiện song hành tâm hiếu và hạnh hiếu một cách trọn vẹn thì như đất trên đầu móng tay. Ở đây, chúng ta không bàn đến hạng người mang tội đại nghịch (giết cha, giết mẹ) hay những kẻ nghịch tử chỉ báo hại làm khổ mẹ cha. Vấn đề ở đây là đối với những người con tuy có hiếu, mong muốn được thể hiện đạo hiếu nhưng rồi cũng không làm được gì nhiều cho đấng sinh thành. Vì sao vậy? Lý do có đến hàng ngàn hàng vạn để biện hộ cho điều ấy. Nhưng không ai đủ tuệ giác để trả lời cho câu hỏi trên, duy chỉ bậc Chánh Đẳng Chánh Giác của chúng ta. Đức Phật dạy, báo hiếu có nhiều cách nhưng tựu chung lại có hai cách chính: hiếu thế gian và hiếu xuất thế gian.
Hiếu thế gian là cách thường tình ai cũng có thể làm được, cung cấp cho cha mẹ cơm ăn áo mặc đầy đủ, thuốc thang, vật dụng, chăm sóc, thăm viếng, hầu cận… nhưng hơn hết là sự ân cần, thương yêu, kính trọng mẹ cha. Đó là hiếu thế gian thử hỏi mấy ai có thể báo hiếu một cách trọn vẹn được. Theo trí tuệ và tình thương của Đạo Phật, người con có thể báo hiếu cha mẹ một cách trọn vẹn nhất, tức là hiếu xuất thế gian theo lời Phật dạy.
Hiếu xuất thế gian tức là phải khuyên cha mẹ thọ Tam quy Ngũ giới, làm lành lánh dữ, giữ giới ăn chay niệm Phật khi còn tại thế. “Này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào lòng tin. Đối với cha mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới. Đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào bố thí. Đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích hướng dẫn, an trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha.”[2]. Ngược lại khi cha mẹ không còn tại thế, những người con vẫn có thể báo hiếu cha mẹ bằng cách cúng dường Tam bảo, ăn chay niệm Phật hồi hướng công đức đến cho cha mẹ, thay cha mẹ làm những việc đấy. Trong Kinh Địa Tạng, Đức Phật có dạy: “Như sau khi người đó đã chết, lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà tu tạo nhiều phước lành, thời có thể làm cho người chết đó khỏi hẳn chốn ác đạo, được sanh lên cõi trời hoặc trong loài người hưởng lấy nhiều sự rất vui sướng, mà kẻ thân quyến hiện tại đó cũng được vô lượng điều lợi ích” [3]. Để báo hiếu, người con nên vì song thân mà tu các công đức, thiết trai cúng dường, làm những phước lành thì cha mẹ cũng được hưởng một phần công đức. Hơn nữa, nhờ con tu nhơn duyên thánh đạo mà các điều tội ác của cha mẹ cũng được tiêu sạch.
Là người con Phật, mỗi chúng ta phải luôn tâm niệm cha mẹ không bao giờ mất, có mất thì đó chỉ là xác thân hữu hình, còn cha mẹ vẫn tồn tại trong từng tế bào của mình. Mình an lạc hạnh phúc thì cha mẹ cũng an lạc hạnh phúc. Bên cạnh đó, mình còn mang dòng máu trái tim của cha, của mẹ đi khắp muôn nơi. Vì vậy, người cha, người mẹ không chết trong chính tâm khảm mỗi người. Mượn xác thân cha mẹ cho để làm những việc phúc lành trong cuộc đời này, giúp đỡ thương yêu người nhỏ hơn ta, hiếu kính vâng lời người lớn hơn ta. Không hạn hẹp thân hữu hình này trong gia đình, họ hàng mà còn lan tỏa trái tim của mẹ, của cha đến nhiều người hơn. Bởi lẽ người con Phật luôn hiểu rằng: “Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta. Bao nhiêu đời kiếp ta từ đó mà sanh ra, nên chúng sanh trong sáu đường là cha mẹ của ta cả” [4].
ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO HIẾU
Đức Phật ra đời để khai mở con đường tỉnh thức cho chúng sanh, trước khi khai mở tuệ giác, đạo đức căn bản phải trọn vẹn trước. Nói cách khác, Đức Phật dạy chúng sanh làm tròn bổn phận người con trước rồi mới dạy pháp giải thoát mà bổn phận vuông tròn cũng đồng với giải thoát vậy. Cho nên, lúc Đức Phật mới thành đạo Vô thượng Chánh giác, Ngài bắt đầu kiết “Bồ tát giới”, tuyên thuyết rằng: “Hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là giới cũng gọi là cấm ngăn” [5]. Người thế gian thường cho rằng, hàng Thích tử xuất gia giữ giới luật nghiêm ngặt thì lấy gì để báo đáp ân đức cha mẹ mà không biết rằng hiếu thuận là pháp chí đạo.
Thông thường, nghe từ giữ giới, mọi người thường nghĩ đó là những ngăn cấm không được làm điều này điều kia một cách khư khư. Nhưng thực ra, giới là nền tảng đạo đức căn bản, căn bản là vì chúng ta chỉ cần không làm các điều ác, siêng làm các việc lành đó là sự giữ giới rồi. Song song giữ tâm ý trong sạch thì phước lành tăng trưởng, có phước lành là báo hiếu vậy. “Hiếu với mẹ cha tức là kính Phật. Nếu ở đời không có Phật thì hãy khéo thờ cha mẹ. Khéo phụng thờ cha mẹ như phụng thờ Phật vậy” [6]. Đức Phật là người khai sáng ra Đạo Phật nhưng chính bản thân Ngài cũng không phủ nhận ân đức sinh thành của cha mẹ mà còn khuyên chúng đệ tử hiếu kính, thờ phụng cha mẹ chính như thờ kính Phật vậy. Niềm tôn kính dành trọn cho Đức Phật bao nhiêu thì cha mẹ cũng không khác, vì cha mẹ chính là hai vị Phật ở trong nhà.
Có lẽ mọi người không hiểu thấu đáo về Đạo Phật nên có quan điểm sai lầm như vậy. Còn quan điểm Đạo Phật là “Phật pháp tại thế gian. Không lìa thế gian giác”, không thể lìa khỏi thế gian này mà tìm cầu đạo giác ngộ. Trong kinh Đại phương tiện Phật báo ân, Đức Phật đã nói với chúng đệ tử, chính Ngài khi còn ở trong đường sinh tử, ở trong tất cả loài chúng sanh cũng đã phải chịu đủ mọi thân hình nhiều như hạt bụi, nên tất cả chúng sanh đã từng là cha là mẹ của Ngài. Vì vậy, trải qua nhiều kiếp tu hành đến kiếp cuối chứng thành đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cha mẹ là trọng ân đối với Đức Phật. Theo đó mà suy, người học đạo không thể không tinh tấn báo hiếu cha mẹ.
Đấng Từ Phụ là tấm gương chí kính chí hiếu cao cả trên thế gian này không lẽ nào là người con Phật chúng ta lại không báo hiếu cha mẹ một cách cùng tột. Sau khi tìm được con đường giác ngộ và hoằng hóa khắp nơi, Đức Phật vẫn luôn quán chiếu và muốn về hóa độ thân bằng quyến thuộc. Xét thời duyên thích hợp, sau kiết hạ an cư thứ hai, Đức Phật đã trở về Kapilavatthu ngoài việc thăm viếng người thân Ngài đã thuyết giảng cho vua cha và cùng triều thần hiểu được nền tảng cơ bản của giáo pháp. Cũng nhờ phước báu và phúc duyên gieo trồng căn lành nhiều kiếp ngay lúc đó, vua Tịnh Phạn đã nhập vào dòng Thánh, di mẫu Mahapajapati Gotami, công chúa Yasodhara và hoàng thân quốc thích đều được ân hưởng giáo pháp giải thoát. Và nhiều lần sau đó, quán xét nhân duyên thích hợp, Đức Phật đều ghé viếng thăm và hướng dẫn vua cha tu tập. Đến lúc cuối đời, Đức Phật thuyết giảng cho vua cha nghe bài pháp nhiệm mầu về vô thường và vô ngã, vua nghe xong chứng đắc thánh quả A la hán, đây là vị cư sĩ đầu tiên chứng đắc quả vị A la hán trong đời. Nhìn vào thực tại sâu xa, liệu Ngài có thể làm được nếu khi xưa không quyết chí ra đi tìm đạo, để lại vợ đẹp con thơ, ngai vàng phú quý thì làm sao có được quả lành hiện tiền. Hướng cha mẹ đến con đường thánh thiện, giải thoát khổ đau mới thật sự là báo hiếu chân thật nhất mà người con dâng lên đấng sinh thành.
Hai vị thượng thủ trong Tăng đoàn cũng là tấm gương nổi trội về hiếu hạnh, đó là ngài Mục-kiền-liên và ngài Xá-lợi-phất. Mỗi khi nhắc đến ngài Mục-kiền-liên không ai là không biết ngài – vị đại hiếu trong Đạo Phật nói riêng và tín ngưỡng nhân gian nói chung. Để đền đáp công ơn mẹ ngài đã thiết trai cúng dường trai tăng vào ngày tự tứ hồi hướng cho mẹ nghiệp tội được thuyên giảm, riêng ngài thân hành vào địa ngục cứu mẹ. Mặc dù ngài Xá-lợi-phất trí tuệ bậc nhất trong Tăng đoàn nhưng hiếu hạnh đền đáp công đức sanh thành cũng vẹn toàn. Vào cuối đời, xét nhân duyên thời cơ đã đến, ngài trở về nhà và quyết tâm bằng mọi cách làm cho mẹ ngài phát sinh niềm tin bất động đối với Phật, Pháp, Tăng. Lần lượt từ bốn vị Đại Thiên Vương, vua trời Đế Thích, vua cõi trời Phạm Thiên đến đảnh lễ và vấn an sức khỏe ngài. Mẹ ngài bất ngờ vì đấng Phạm Thiên – vị vua mà bà luôn thờ kính mà lại xuống đảnh lễ con mình. Chỉ qua hành động đó, tự trong tâm bà khởi lên lòng tôn kính Phật tuyệt đối. Mặc dù ngài Xá-lợi-phất thị tịch trước mẹ, nhưng ngài vẫn trọn vẹn phần hiếu hạnh giúp mẹ tu tập, tin sâu Tam bảo, gieo quả lành về sau.
LÒNG CHÍ HIỂU CẢM ĐỘNG ĐẾN CHƯ PHẬT, BỒ TÁT
Từ xa xưa đến nay, lòng hiếu thảo luôn là một trong những đức tính được người đời ca ngợi nhiều nhất. Cổ nhân vẫn thường dạy: “Bách thiện hiếu vi tiên”, nghĩa là trong hàng trăm cái thiện thì chữ hiếu là đầu. Nhân là đức tính đứng đầu trong muôn đức, là tính chất để tạo nên nhân cách của một bậc quân tử, mà hiếu là cội gốc của nhân nên hiếu được xem là nền tảng đạo đức của người quân tử.
Là người con Phật, chắc hẳn không ai xa lạ tích truyện Bà-la-môn nữ cứu mẹ trong Kinh Địa Tạng. Thánh nữ Bà-la-môn biết mẹ mê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam bảo, nên Thánh nữ phương tiện đem nhiều lời khuyên nhủ, hầu làm cho mẹ tin sâu nhân quả có được chánh kiến nhưng bà mẹ không tin hẳn. Là người con tu học Phật pháp, nên bà biết mẹ mình khi sống tạo ác nghiệp thì chết rồi chắc chắn sẽ đọa vào đường ác. Vì không muốn mẹ chịu khổ nên bà bèn bán tài sản, sắm nhiều hương hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp thờ Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Chính lòng thương mẹ trội hơn lòng thương thường tình của chúng sanh đã cảm đến Đức Phật. Ngài đã cất tiếng vọng trên hư không tâm truyền tâm với Thánh nữ mà đáp lại lòng mong cầu cứu mẹ nơi chốn ác đạo. Và không ai khác, Thánh nữ Bà-la-môn là tiền thân của Bồ tát Địa Tạng vậy. Nhiều đời nhiều kiếp bồ tát Địa Tạng đã phát nguyện rộng lớn: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai, những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát” [7].
Lời nguyện của ngài cũng là hạnh nguyện rộng lớn của chư Phật, Bồ Tát bởi tất cả chư Phật, Bồ Tát ra đời đều có mục đích duy nhất là cứu khổ chúng sinh. Chúng ta thấy được tâm hiếu hạnh cao cả của tiền thân Bồ Tát Địa Tạng. Tâm hiếu vượt trên cả thường tình chúng sinh, với mong mỏi làm sao cho mẹ được an vui, không phải chịu khổ đau. Ngài vì thương chúng sinh phải chịu khổ mà dũng mãnh phát lời đại nguyện cứu độ khắp tất cả chúng sinh như vậy.
Không chỉ trong Phật giáo mà đạo Nho cũng có rất nhiều tấm gương hiếu hạnh lưu truyền đến tận ngày nay. Tích truyện ở Trung Hoa có lẽ không ai là không biết danh tiếng vua Ngu Thuấn. Mồ côi mẹ từ tấm bé nên ông sống với cha, mẹ kế và người em trai. Dù không phải người mang nặng đẻ đau và không cùng chung ruột thịt nhưng ông vẫn một mực chu toàn bổn phận làm con và làm anh. Trái ngang, cả ba người thường âm thầm hết lần này đến lần khác lập mưu để hại ông. Thế nhưng, lần nào gặp nạn, ông cũng đều bình an và tránh được ách nạn. Lòng nhân từ và hiếu thảo của ông khiến nhiều người cảm kích, không những thế, ông trời cũng cảm động đến tấm lòng của ông. “Hiếu hạnh đứng đầu trăm hạnh tốt. Hiếu cảm đến trời thì mưa hòa gió thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật hóa sinh, hiếu cảm đến người thì mọi phúc tăng trưởng” [8].
Ở những nơi nơi rừng sâu hiểm độc, ông vẫn bình an không gặp bất kỳ nguy hiểm gì, khi cày đất thì voi đến giúp, chim chóc đến giúp nhổ cỏ, gánh bớt sự nhọc nhằn cho ông. Cũng chính vì “phụng dưỡng cha mẹ là vận may tối thượng” nên cuộc đời ông đều gặp những may mắn từ con người cho đến muôn thú đều sẵn sàng dang tay giúp đỡ. Cho đến khi được làm vua, Ngu Thuấn vẫn không quên công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ mà vẫn thường xuyên thăm hỏi. Đồng thời vẫn một lòng một dạ chí hiếu với cha mẹ. Lòng hiếu thảo của Ngu Thuấn được người đời ca ngợi cho đến ngày nay trở thành một tấm gương “hiếu đạo” trong văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Mỗi việc làm, mỗi lời nói hiếu hạnh mang một sắc thái cá biệt, song tựu trung lại vẫn là đền đáp ân đức sanh thành của cha mẹ. Công ơn cha mẹ cao cả như núi, sâu rộng như biển không thể nào dùng ngôn ngữ trần gian nói hết được. Thế nhưng, sự báo hiếu tức đền đáp công ơn ấy lại hữu hạn. Hữu hạn trước hết bởi đời người quá ngắn, dù sống cả đời cũng không đền đáp được. Thứ nữa, hiếu thế gian không phải là tận hiếu. Nên đời người cứ mãi xoay tròn, không thể nào báo hiếu một cách rốt ráo mà chỉ dừng lại ở phần vật chất và đạo đức nhân bản. Đúng nghĩa một người con hiếu thảo phải là một thiện tri thức làm trợ duyên cho cha mẹ trong việc tu tập hướng đến sự giác ngộ và giải thoát ngay hiện đời và mai sau. Mùa Vu Lan lại về, thêm một lần nữa xin chúc cho tất cả người con vuông tròn hiếu đạo, tất cả mọi người sống an vui, an lành dưới ánh hào quang của chư Phật.
Chú thích:
[1] Hòa thượng Thích Minh Châu, Kinh Tương ưng bộ, kinh Hiếu kính mẹ cha, tr.1326.
[2] Hòa thượng Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ, chương 2, phẩm Tăng thăng bằng, tr.119.
[3] Hòa thượng Thích Trí Tịnh (Việt dịch), Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện, tr.153.
[4] Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Kinh Phạm Võng, tr.34.
[5] Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Kinh Phạm võng Bồ tát giới, tr.17.
[6] Hòa thượng Tâm Châu, Kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán, phẩm Báo ân, tr.25.
[7] Hòa thượng Thích Trí Tịnh, 2018, Kinh Địa Tạng, tr.49.
[8] Thanh Bạch (dịch chú), Minh Tâm Bửu Giám, tr.55.
Tài liệu tham khảo:
1. Hòa thượng Tâm Châu (2018), Kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán, Nxb. Hồng Đức, TP HCM.
2. Hòa thượng Thích Minh Châu (2015), Kinh Tương ưng bộ, Nxb. Tôn giáo, TP HCM.
3. Hòa thượng Thích Trí Tịnh (Việt dịch, 2018), Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
4. Hòa thượng Thích Trí Tịnh (2008), Kinh Phạm võng Bồ tát giới, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
5. Tạ Thanh Bạch (dịch chú, 2003), Minh Tâm Bửu Giám, Nxb. Thanh Hóa.