Nhân sự kiện Đại lễ Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đức Tổ sư Minh Đăng Quang, hệ phái Khất sĩ phối hợp Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam cùng với các đơn vị, tổ chức hội thảo khoa học chủ đề: “Hệ phái Khất sĩ: Tư tưởng Phật học, lịch sử truyền thừa và những đóng góp” nhằm đánh dấu bước ngoặc lịch sử về sự xuất hiện của đức Tổ sư Minh Đăng Quang, tôn vinh công hạnh tu tập, cuộc đời hành đạo và những đóng góp của ngài trong một giai đoạn lịch sử của Phật giáo nước nhà. Trên tinh thần tôn kính, tri ân công đức của đức Tổ sư Minh Đăng Quang và những đóng góp cho đạo pháp và dân tộc của các thế hệ kế thừa, tôi xin đóng góp cùng hội thảo bài tham luận: “Vị trí, vai trò và những đóng góp của hệ phái Khất sĩ đối với đạo pháp và dân tộc”.

I. GIÁO HỘI TĂNG-GIÀ KHẤT SĨ VIỆT NAM VỚI VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA MỘT TÔN GIÁO NỘI SINH TRONG LÒNG DÂN TỘC
1. Nhìn nhận về sự xuất hiện của đức Tổ sư Minh Đăng Quang
Khi nói về vị trí của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của quần chúng Phật tử tại Nam Bộ, thì sự xuất hiện của đức Tổ sư Minh Đăng Quang trong bối cảnh những năm từ 1947 đến 1954 chính là điểm nhấn của vấn đề. Ở đây, tôi xin lược trích một số tư liệu nói về khởi đầu sự tu hành và hoằng đạo của ngài như sau:
– Theo tác giả Vĩnh Thông, trong bài viết “Đức Tổ sư Minh Đăng Quang và Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam” đăng trên tạp chí Văn hóa Phật giáo: “Đức Tổ sư Minh Đăng Quang sanh ngày 26 tháng 9 năm Quý Hợi (1923). Năm 1937, ngài sang Cambodia tầm sư học đạo. Bấy giờ ngài tìm đến ông Lục Tà Keo, một người có quen biết với gia đình từ trước, khi đó ở làng Tuk Meas, người Việt quen gọi là Sóc Mẹt (nay là xã Tuk Meas Khang Lech, huyện Banteay Meas, tỉnh Kampot). Ngài vừa làm việc phụ giúp ông Lục Tà Keo vừa dành thời gian vào các chùa Khmer tìm hiểu kinh điển Pāli” và “Năm 1941, ngài trở về Việt Nam, làm việc ở Sài Gòn. Năm 1942, ngài lập gia đình nhưng sau đó con gái và người vợ lần lượt qua đời… Năm 1944, ngài xuống tóc tu hành tại thị xã Vĩnh Long” [1].
– Website của chùa Xá-lợi, trong bài “Tổ Minh Đăng Quang (1923-1954)” có ghi: “Tổ Minh Đăng Quang sinh năm Quý Hợi (1923). Năm Đinh Sửu (1937), khi vừa 15 tuổi, ngài xin phép phụ thân cho xuất gia học đạo; phụ thân ngăn cản với lý do ngài còn quá nhỏ; ngài vẫn nung nấu chí xuất gia. Năm Tân Tỵ (1941) sau bốn năm học đạo nơi xứ người, ngài trở về nước. Khi về đến quê hương, ngài lập gia đình với cô Kim Huê, tuy nhiên chưa đầy một năm sau cô Kim Huê từ trần. Đầu năm Quý Mùi (1943) ngài trở lại con đường tu học, nghiên cứu về đường lối của hai hệ phái Bắc tông và Nam tông; ngài đến vùng Thất Sơn để thực hành sở nguyện. Sau khi rời Thất Sơn, ngài qua Hà Tiên dự định ra Phú Quốc, nhưng do trễ tàu nên ngài ở lại ghềnh Mũi Nai, ngồi tham thiền an trú trong Chánh pháp Bát-nhã, năm ấy ngài tròn 22 tuổi. Năm Giáp Thân (1944), ngài đã ngộ chứng, lập nên một hệ phái Khất sĩ mang riêng bản sắc Việt Nam. Rằm tháng Tư năm ấy, ngài bắt đầu truyền khai tư tưởng và lối đạo của mình tại chùa Linh Bửu, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho, trở thành vị Tổ đầu tiên của giáo phái Khất sĩ Việt Nam.”
– Website Wikipedia đăng bài “Minh Đăng Quang (1923-1954) là một tu sĩ Phật giáo và là người khai sơn hệ phái Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam”, trang này trích dẫn từ bài “Tổ sư Minh Đăng Quang với chí nguyện “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp” của Hòa thượng Thích Giác Toàn, nội dung: “… Năm 15 tuổi, Sư (tức đức Tổ sư Minh Đăng Quang) xin phép cha qua Nam Vang để tầm sư học đạo, tại đây, Sư thụ giáo với một tu sĩ người Khmer lai Việt. Cuối năm 1941, Sư về lại Sài Gòn, vâng lời cha lập gia đình năm 1942. Tuy nhiên, chỉ một năm sau, người vợ (tên Kim Huê) và con nhỏ lần lượt qua đời. Cám cảnh vô thường, Sư quyết chí đi tu. Đầu tiên Sư đến Hà Tiên định lần qua Phú Quốc rồi sau đó sẽ đi nước ngoài học đạo, nhưng khi vừa đến nơi thì đã trễ tàu, Sư ra đầu gành bãi biển Mũi Nai (Hà Tiên) ngồi tham thiền 7 ngày đêm, ngộ được lý vô thường, vô ngã, khổ vui của cuộc đời… Sau khi ngộ đạo, Sư lên vùng Thất Sơn (An Giang) tiếp tục tu tập; nhân duyên Sư gặp được một nam tín đồ và theo vị này về trú ở Linh Bửu tự, thuộc làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. Nơi đây, suốt ba năm (1944 – 1947), thường thì buổi sáng Sư đi khất thực, đến trưa thì thọ trai, buổi chiều giáo hóa, buổi tối tham thiền nhập định, nêu gương về đời sống Phạm hạnh thanh tịnh, y theo truyền thống của Phật Tăng thời Chánh pháp” [2].
– Trong bài viết “Sơ lược tiểu sử Tổ sư Minh Đăng Quang” do hệ phái Khất sĩ biên soạn: “… Ngài rời Việt Nam đến Campuchia năm đó được 15 tuổi, ngay từ buổi đầu gặp được một vị thầy Việt lai Miên nổi tiếng đạo pháp cao siêu, ngài liền cầu xin thọ giáo, trải qua được bốn năm ở Campuchia… Năm 1946, nhân duyên ngài gặp một vị hiền sĩ thỉnh ngài về làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho để tu tập và truyền bá Chánh pháp, khởi đầu cho công cuộc truyền bá giáo pháp Khất sĩ…”.
Nhìn chung thì tất cả các nguồn tư liệu trên đều không xác định cụ thể và không thống nhất các chi tiết nói về việc đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã chính thức xuất gia vào ngày tháng năm nào, xuất gia với vị thầy nào, được đặt pháp danh là gì, được truyền thừa theo thiền phái nào, hoặc sau khi đã lập gia đình và quay lại con đường hành đạo thì ngài có xuất gia lại với vị thầy nào khác nữa không hay tự mình xuất gia, thọ giới, hành đạo và hoằng đạo?
Như chúng ta đã biết, đối với Phật giáo Việt Nam, vấn đề truyền thừa có khởi nguồn thầy tổ và theo thứ tự của từng hệ phái trong các tổ chức Phật giáo đã trở thành truyền thống đặc trưng. Từ khi Thái tử Tất-đạt-đa thành tựu đạo quả với danh xưng là Phật Thích-ca Mâu-ni, trải qua 28 đời truyền thừa y bát, vị Tổ đời thứ 28 là Bồ-đề-đạt-ma đã vân du sang Đông Độ làm Sơ tổ Thiền tông tại Trung Hoa, ấn chứng tâm tông truyền trao y bát trải qua 6 đời, đến đời tổ thứ 6 là Lục tổ Huệ Năng, dù việc truyền y bát tạm ngưng vì lòng tin của đại chúng đã tròn đầy; tuy nhiên, truyền thống truyền thừa trong Phật giáo vẫn luôn là vấn đề quan trọng để ấn chứng và là cơ sở để dòng pháp tương tục. Chẳng hạn, sau thời Lục tổ Huệ Năng, Thiền tông vẫn tiếp tục được truyền xuống các thế hệ kế thừa, nổi bật là thiền phái Lâm Tế phát triển mạnh mẽ tại miền Nam Việt Nam; trong đó, các thế hệ kế thừa của dòng thiền Lâm Tế có thể điển hình như Tổ Siêu Bạch Nguyên Thiều (đời thứ 33 thiền phái Lâm Tế), Tổ Minh Hải Pháp Bảo (đời thứ 34 thiền phái Lâm Tế), Tổ Thiệt Diệu Liễu Quán (đời thứ 35 thiền phái Lâm Tế) và kế tiếp là sự truyền thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác “Tổ Tổ tương truyền, Sư Sư tương thọ”.

2. Vị trí của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam trong đời sống tín ngưỡng tâm linh, giai đoạn từ năm 1947 đến trước năm 1966
Như đã trình bày ở trên, và sở dĩ ở đây chúng tôi nêu lên vấn đề này nhằm nhấn mạnh đến sự xuất hiện của đức Tổ sư Minh Đăng Quang trong không gian tín ngưỡng tâm linh Phật giáo tại Nam Bộ, trong một giai đoạn lịch sử của sự giác ngộ, tự tu, tự chứng đắc của ngài. Đáng nói là yếu tố này càng được minh chứng trong bài “Nét đặc trưng của hệ phái Khất sĩ”, tác giả Yến Phượng căn cứ theo sách “Hệ phái Khất sĩ: 100 ngôi tịnh xá tiêu biểu”, đã trích dẫn một đoạn ở trang 12 của sách này như sau: “… Năm 1946, ngài được một cư sĩ thỉnh về chùa Linh Bửu ở làng Phú Mỹ – Mỹ Tho phổ hóa nhân sanh, tại đây, ngày rằm tháng Tư và rằm tháng Bảy âm lịch năm 1946, ngài đối trước Tam bảo thu nhiếp tam nghiệp trong 7 ngày đêm rồi phát nguyện thọ trì y bát giới Sa-di và Cụ túc Tỳ-kheo 250 giới, lấy pháp hiệu Minh Đăng Quang, với đại nguyện nối truyền Thích-ca Chánh pháp, noi gương Phật Tăng xưa sống đời Phạm hạnh giải thoát”… Hay, chính đức Tổ sư Minh Đăng Quang tự thuật: “Minh Đăng Quang khất sĩ xuất gia năm 1944 tại Vĩnh Long, đi tu tìm học nơi hai giáo lý Đại thừa, Tiểu thừa của Cao Miên và Việt Nam. Năm 1946, nạn khói lửa chiến tranh danh lợi, đốt phá núi rừng làm cho người tu không chỗ ở, lại thêm nạn cướp bóc, không cho kẻ sĩ hiền làm việc nuôi thân sống tạm. Minh Đăng Quang rời khỏi xứ Cao Miên trở về Nam Việt thực hành giới luật Tăng đồ tại tỉnh Mỹ Tho cho đến năm 1948” [3].
Nhìn lại giai đoạn đầu của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam, chúng ta sẽ thấy, chính vì yếu tố này mà từ khi đức Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng ra hệ phái Khất sĩ cho đến năm 1954, đoàn Du Tăng Khất sĩ do đức Tổ sư Minh Đăng Quang lãnh đạo, hoằng pháp không ngừng nghỉ, và dù phát triển khắp các tỉnh thành ở Nam Bộ nhưng vẫn chưa được các Giáo hội Phật giáo qua các thời kỳ trong giai đoạn này công nhận là một tổ chức thành viên trong hệ thống tổ chức các Giáo hội Phật giáo.
Đến giai đoạn sau khi đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng vào năm 1954 trở đi, dù nhân sự trong hệ phái tiếp tục kế thừa Tổ nghiệp, lãnh đạo điều hành, phát triển rộng khắp Nam Bộ và ra tận miền Trung; tuy nhiên mãi cho đến năm 1964, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ra đời, góp phần đáng kể vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có sự tích cực dấn thân của một số vị trong hệ phái Khất sĩ. Qua sự kiện này, ngài Giác Nhiên đã cùng với hai vị trong hệ phái Khất sĩ lúc bấy giờ là ngài Giác Nhu và ngài Giác Tường đã vận động sự ủng hộ của chư Tôn đức giáo phẩm trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất và đứng ra thành lập Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam. Từ nguyên nhân này, tổ chức Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam mới chính thức ra đời và được công nhận vào năm 1966.
Trước thời điểm đó, ba tổ chức Phật giáo có ảnh hưởng lớn ra đời từ năm 1951 đến năm 1964 tại miền Nam thời bấy giờ là Tổng hội Phật giáo Việt Nam (năm 1951), Giáo hội Tăng-già Việt Nam (năm 1952) và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (năm 1964), trong giai đoạn từ năm 1947 đến trước năm 1966, đều xem Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam chỉ là một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc.
3. Vai trò Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam trong đời sống tín ngưỡng
Thời bấy giờ, mặc dù chư Tôn đức các tổ chức Giáo hội Phật giáo vẫn xác định Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam chỉ là một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc, chưa phải là một tổ chức Giáo hội Phật giáo, tuy nhiên, vị trí của hệ phái Khất sĩ đối với đời sống tín ngưỡng tâm linh của quần chúng và Phật tử tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ thời bấy giờ thì lại khác, bởi phần đông quần chúng Phật tử đều xem Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam là một tổ chức Phật giáo gần gũi, chan hòa thân thiện với bà con đồng bào cả người lương lẫn người theo Đạo Phật. Nhất là trong bối cảnh xã hội lâm vào cảnh đất nước chiến tranh ly loạn vào những thập niên 50, 60 của thế kỷ trước thì sự hiện diện của đoàn Du Tăng Khất sĩ khoác trên mình tấm y vàng, ôm bình bát khất thực từ chốn thị thành cho đến tận các làng quê nghèo xa xôi hẻo lánh đã thật sự tạo được ấn tượng và lan tỏa sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của đồng bào và với cả giới Phật tử. Chính nhờ vị trí này mà vai trò của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam trở nên rất quan trọng đối với quần chúng có xu hướng về Đạo Phật, nhờ đó hệ phái này đã có những đóng góp đáng kể trong việc chuyển tải tư tưởng giác ngộ giải thoát của Đạo Phật vào đời sống nhân sinh, góp phần thiết thực vào công cuộc chấn hưng Phật giáo trong một giai đoạn lịch sử.
II. ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ VIỆT NAM VỚI VỊ TRÍ CỦA MỘT TÔN GIÁO NỘI SINH TRONG LÒNG PHẬT GIÁO
1. Giai đoạn từ sau năm 1966 đến trước năm 1981
Một khi nói đến vị trí của hệ phái Khất sĩ trong hệ thống Phật giáo nước nhà giai đoạn từ sau năm 1966 đến trước năm 1981, tất nhiên chúng ta nên hiểu rằng vị trí này đã được đức Tổ sư Minh Đăng Quang và thế hệ kế thừa của hệ phái đã xây dựng nền móng khá vững chắc từ chuỗi thời gian dài trước đó.
Căn cứ theo lịch sử hình thành và phát triển của hệ phái Khất sĩ, khởi đầu từ năm 1947, đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã thâu nhận và làm lễ thế phát cho một số vị được xem là những đệ tử xuất gia đầu tiên với ngài [4]. Vào năm đó, đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã tổ chức cho các đệ tử an cư kiết hạ lần đầu tiên tại làng Phú Mỹ, thời điểm ấy các vị đệ tử Khất sĩ gọi đức Tổ sư là Sư trưởng. Đến năm 1948, ngài và các đệ tử bắt đầu hành đạo đến Sài Gòn và các tỉnh miền Đông, được mời an cư kiết hạ năm thứ hai tại chùa Kỳ Viên. Thời gian này ngài kiến tạo ngôi đạo tràng đầu tiên là tịnh xá Pháp Vân, kế đến ngài tiếp tục xây dựng thêm tịnh xá Trúc Viên (về sau đổi tên là Ngọc Thuận) và tịnh xá Ngọc Viên, cả ba đều tọa lạc tại tỉnh Vĩnh Long; trong đó tịnh xá Ngọc Viên là trung tâm hoằng pháp của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Vào năm 1949, Đại lễ Tự tứ Tăng – Vu-lan-bồn lần đầu tiên được tổ chức trọng thể tại đây. Sau đó, trong dịp lễ Tự tứ năm 1953, đức Tổ sư Minh Đăng Quang giao phó trách nhiệm quản lý Giáo hội Khất sĩ cho ngài Giác Chánh; cuối năm đó Tăng đoàn Khất sĩ được bổ sung thêm hai vị lãnh đạo là ngài Giác Tánh và Giác Như.
Sau khi đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng vào năm 1954, Tăng đoàn Khất sĩ tiếp tục hành đạo theo đường lối đã được đức Tổ sư ấn định. Trong những năm tiếp theo, đoàn Du Tăng Khất sĩ khi đó do Trưởng lão Giác Chánh dẫn đầu đã tổ chức hai chuyến hoằng pháp ra miền Trung, giáo pháp Khất sĩ bắt đầu bén duyên và nhanh chóng phát triển trên các vùng đất mới này.
Tính đến năm 1954, đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã thu nhận hơn 100 Tăng Ni, cảm hóa hàng vạn cư sĩ, xây dựng trên 20 ngôi tịnh xá. Từ nền tảng này, các giáo đoàn mới tiếp tục được hình thành, cụ thể là từ năm 1957 trở đi, các giáo đoàn trong tổ chức Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam lần lượt ra đời, như giáo đoàn của ngài Giác Tánh, Giác Tịnh và giáo đoàn của ngài Giác An thành lập năm 1957, giáo đoàn của ngài Giác Nhiên thành lập năm 1959, giáo đoàn của ngài Giác Lý thành lập năm 1960. Đến năm 1962, ngài Giác Huệ thành lập Giáo hội Khất sĩ Việt Nam.
Thời gian trước đó, từ năm 1947, Ni sư Huỳnh Liên đã được đức Tổ sư giao phó trọng trách dẫn dắt hội chúng Tỳ kheo Ni, đến năm 1958 thành lập nên Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam [5], tổ chức này hoạt động độc lập với các giáo đoàn Tăng.

Theo nguồn tư liệu này, khoảng thời gian trước năm 1975, Phật giáo Khất sĩ đã từng tồn tại ba tổ chức giáo hội gồm có Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam, Giáo hội Khất sĩ Việt Nam và nòng cốt vẫn là Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam (khi đó có năm giáo đoàn). Ngoài ra còn một số người đến xin xuất gia với các vị Trưởng lão trong các giáo đoàn Khất sĩ rồi xin đi tu tịnh. Sau đó các vị này thâu nhận đệ tử và hình thành thêm những nhóm Khất sĩ riêng lẻ khác nằm ngoài sự quản lý của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam. Từ những định hình cơ bản về cơ sở vật chất và nguồn nhân sự dồi dào như đã nêu, các đoàn Du Tăng Khất sĩ đã đẩy mạnh công cuộc hoằng pháp tại nhiều địa phương ở miền Nam và Trung bộ.
Ở đây chúng tôi lược kê tính quy mô của tổ chức này để chứng minh rằng, vị trí của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam trong hệ thống Phật giáo nước nhà giai đoạn từ sau năm 1966 đến trước năm 1981 vốn đã được đức Tổ sư Minh Đăng Quang và hàng đệ tử trong hệ phái xây dựng nền móng rất vững chắc từ trước đó. Có thể nói rằng, chính nhờ nền tảng cơ bản về cơ sở vật chất và nguồn nhân sự dồi dào, cùng với những đóng góp nhất định vào công cuộc chấn hưng Phật giáo, nhất là sau sự kiện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời vào năm 1964, khi đó một số vị trong Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam đã đồng hành, sát cánh bên cạnh chư Tăng Ni của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tích cực dấn thân bảo vệ Phật giáo và góp sức vào công cuộc đấu tranh đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh cho nước nhà. Từ những cơ sở này mà Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam đã được công nhận tư cách pháp nhân trong hệ thống Tăng-già Phật giáo tại miền Nam Việt Nam vào năm 1966.
Như vậy, năm 1966, Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam được Tăng-già Phật giáo Việt Nam công nhận là thành viên, điều này có nghĩa là Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam từ một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc đã trở thành một tổ chức Giáo hội trong lòng Phật giáo. Kể từ đó Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam chính thức là một đoàn thể Phật giáo với những nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của một đoàn thể Phật giáo chính thống trong hệ thống Tăng-già. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chư Tăng Ni và tín đồ Phật tử của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam; bởi vì kể từ đây, tổ chức này sẽ có một vị trí chính thức trong môi trường Phật giáo, sẽ cùng với các Giáo hội và các tổ chức hệ phái trong lòng Phật giáo có tiếng nói chính thức đóng góp vào chủ trương, đường lối, được tham gia hoạch định các chương trình hoạt động của Phật giáo Việt Nam.
2. Giai đoạn từ ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam đến nay
Nói đến vị trí của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam từ khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào năm 1981, chúng ta cũng cần ghi nhận lại một vài sự kiện quan trọng đã diễn ra trong quá trình thống nhất Phật giáo nước nhà vào năm 1981.
Sự kiện thứ nhất đó là việc thành lập Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam. Nằm trong chuỗi diễn biến của quá trình này, vào ngày 12 tháng 02 năm 1980, chư Tôn đức Giáo phẩm lãnh đạo các tổ chức hệ phái Phật giáo trong cả nước đã có cuộc gặp gỡ tại TP HCM. Hiện diện trong cuộc gặp lịch sử này ngoài các bậc Giáo phẩm cao Tăng lãnh đạo các Giáo hội, thì thời bấy giờ Thượng tọa Thích Giác Toàn với tư cách là Thường trực Trung ương Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam và Ni sư Huỳnh Liên với tư cách là Ni trưởng Ni giới Khất sĩ Việt Nam đã vinh dự đại diện cho Hệ phái Khất sĩ tham gia thành lập Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam. Sau khi Ban Vận động được chính thức thành lập, vào ngày 15 tháng 5 năm 1980, Ban vận động đã làm lễ ra mắt tại chùa Xá-lợi. Tại buổi lễ này, Thượng tọa Thích Giác Toàn thuộc Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam đại diện các tổ chức hội, giáo hội và các hệ phái đã phát biểu bày tỏ cảm xúc hoan hỷ và hoàn toàn nhất trí với việc thống nhất Phật giáo Việt Nam.
Tiếp đến, trong chuỗi công tác của Ban Vận động với chín hệ phái [6] từ ngày 15 đến ngày 24 tháng 03 năm 1981, chư Tăng Ni của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam cũng đã được Ban Vận động thống nhất Phật giáo toàn quốc đến thăm và làm việc vào ngày 15 tháng 3 năm 1981. Đặc biệt, tại Hội nghị thống nhất Phật giáo toàn quốc được tổ chức trọng thể tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) từ ngày 04 đến ngày 07 tháng 11 năm 1981, Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam là một thành viên trong chín tổ chức hội, giáo hội và hệ phái Phật giáo trong cả nước, đã khẳng định vị trí và vai trò quan trọng nhất định của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam trong lòng Phật giáo thời đại mới.
Từ sau năm 1981, các đoàn thể Phật giáo Khất sĩ tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và trở thành một trong ba hệ phái [7] chính thức và nòng cốt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chư Tôn đức Giáo phẩm của Hệ phái Khất sĩ đã được cung thỉnh vào các vị trí quan trọng trong bộ máy lãnh đạo điều hành của Giáo hội, điển hình như Hòa thượng Thích Giác Toàn, hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phó Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP HCM (và trước đó với nhiều vai trò quan trọng khác). Sau khi trở thành Giáo phẩm Trung ương Giáo hội, Hòa thượng tích cực tham gia vào hai công tác trọng tâm của Giáo hội là hoằng pháp và giáo dục Tăng Ni suốt hơn 30 năm.
Một tấm gương điển hình nữa, đó là Ni trưởng Huỳnh Liên, người đã có những đóng góp to lớn trong việc hình thành và phát triển Ni giới Hệ phái Khất sĩ. Sinh thời Ni trưởng cũng đã có những đóng góp nhất định trong sự nghiệp xây dựng và phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt, trong các phong trào hoạt động đấu tranh tại Sài Gòn – Gia Định trước năm 1975, Ni trưởng đã cùng với chư Tăng Ni trong hệ phái Khất sĩ tích cực dấn thân, góp phần vào sự nghiệp giải phóng của toàn dân tộc. Sau ngày đất nước hòa bình thống nhất, chư Tăng Ni hệ phái Khất sĩ dừng chân du hóa, cấm túc tu hành, đến tháng 02 năm 1980, Ni trưởng Huỳnh Liên đại diện Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam tham gia Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam, Ni trưởng là một trong sáu vị đại biểu của hệ phái Khất sĩ Việt Nam tham dự Hội nghị thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ – Hà Nội. Tại Đại hội, Ni trưởng được mời làm Ủy viên Kiểm soát Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Kế tục sự nghiệp này, chư Tôn đức Giáo phẩm Tăng Ni và tín đồ Phật tử thuộc Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho sự xương minh Phật giáo nước nhà.
III. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ CHO ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC
1. Đóng góp cho đạo pháp
Như chúng tôi đã trình bày, dù cho Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam với vị trí của một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc (thời trước năm 1966) hay là một tôn giáo nội sinh trong lòng Phật giáo (thời sau năm 1966), hay ở vị trí là một trong ba tổ chức hệ phái nòng cốt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam như hiện nay, thì vai trò của hệ phái Khất sĩ vẫn luôn là chiếc cầu nối quan trọng để quần chúng nhân dân tiếp cận với Đạo Phật một cách gần gũi thân thiện và thuận lợi. Nói khác hơn, vai trò của hệ phái Khất sĩ là mang đạo vào đời theo phương cách đặc trưng của hệ phái mình.
Trên cơ sở của vai trò này, chúng tôi xin lược nêu một số đóng góp cho đạo pháp của hệ phái Khất sĩ như sau:
1.1 Về hoạt động hoằng pháp lợi sanh
Như chúng ta đã biết, tại Nam Bộ trong thời kỳ từ những năm đầu đến giữa thế kỷ XX đã hình thành rất nhiều tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc, điển hình như Bửu Sơn Kỳ Hương (1849), Tứ Ân Hiếu Nghĩa (1876), Cao Đài (1926), Phật giáo Hòa Hảo (1939),… và trong đó có Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam do đức Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập (1946).
Tuy nhiên, điều đáng nói là mục đích ra đời của các tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc trong giai đoạn này đều gặp nhau ở mẫu số chung đó là dạy tín đồ trong đạo của mình ăn hiền ở lành. Chính vì vậy mà trong các học thuyết truyền giáo của các tôn giáo nội sinh thời bấy giờ đều pha trộn giữa các nội dung đạo đức truyền thống của dân tộc với nền luân lý của đạo Khổng Nho, nhất là có xen lẫn một phần giáo lý căn bản của Đạo Phật như luật nhân quả, lý nhân duyên, bát chánh đạo; điểm nhấn nữa, đó là các học thuyết truyền giáo của các tôn giáo nội sinh đều dùng thể văn thơ lục bát hay song thất lục bát để chuyển tải các nội dung tư tưởng đạo đức, cùng với phương cách tổ chức đoàn thể giống như tại các hương thôn nên rất thuận tiện và gần gũi với đời sống người dân Nam bộ; chính vì vậy mà hầu hết các tôn giáo nội sinh đều có một chỗ đứng nhất định trong đời sống tín ngưỡng của bà con Nam bộ.
Trong giai đoạn lịch sử này, sự xuất hiện của đức Tổ sư Minh Đăng Quang cùng với Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam đã được thể hiện sinh động qua hình ảnh các đoàn du Tăng Khất sĩ, sự thể này đã kịp thời lấp vào chỗ trống trong nhu cầu tín ngưỡng của người dân một cách ngoạn mục; cũng từ đó, vị trí của hệ phái Khất sĩ đối với đời sống tín ngưỡng tâm linh của quần chúng và Phật tử tại các tỉnh miền Tây Nam bộ đã nhanh chóng được khẳng định và trở nên rất vững chắc. Đặc biệt là hình ảnh các du Tăng Khất sĩ khoác tấm y vàng ôm bát vào làng khất thực, vừa lan tỏa nguồn sinh khí thiêng liêng của Đạo Phật đến khắp mọi nơi, vừa tạo được sự gần gũi chan hòa thân thiện của chư Tăng Khất sĩ đến với mỗi con người. Nhờ vậy mà hoạt động hoằng pháp của các thành viên trong tổ chức Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam trở nên vô cùng thuận lợi, mang lại hiệu quả nhất định trong việc chuyển tải tư tưởng Phật học đến với quần chúng Phật tử.
Nói đến sự đóng góp cho đạo pháp, hệ phái Khất sĩ kể từ khi ra đời đã thể hiện trọn vẹn hai sứ mạng then chốt của Đạo Phật, đó là tích cực mang đạo vào đời và phát triển tổ chức giáo đoàn ngày càng lớn mạnh.
Đầu tiên là hoằng pháp, hệ phái Khất sĩ thông qua các du Tăng Khất sĩ đã có nhiều lợi thế hơn so với chư Tăng Ni trong các tổ chức Phật giáo đương thời, bởi lẽ, chư Tăng Ni trong các tổ chức Phật giáo ít có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với quần chúng Phật tử, thường thì chỉ tiếp xúc với bà con mỗi khi gia chủ có duyên sự thỉnh mời trong các sự kiện ma chay, hoặc khi Phật tử phát tâm cúng dường trai tăng tại chùa viện hoặc tại tư gia, hoặc tổ chức các buổi thuyết pháp, nhưng cũng chỉ giới hạn trong lễ nghi, không có nhiều thời gian và điều kiện để thân cận và sâu sát với đồng bào Phật tử. Trong khi đó, các du Tăng của hệ phái Khất sĩ nhờ hành trì phương pháp khất thực nên đã có điều kiện tiếp xúc một cách sâu rộng với đời sống của người dân, có nhiều cơ hội chia sẻ tư tưởng Phật học với quần chúng nhiều hơn. Hơn nữa, việc trì bát khất thực của các du Tăng Khất sĩ đã gây được thiện cảm và tạo được ảnh hưởng sâu đậm trong lòng quần chúng Phật tử, từ thuận lợi này mà tổ chức Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam phát triển nhanh chóng trên một địa bàn rộng lớn khắp các tỉnh thành Nam bộ.
Bên cạnh đó, nhờ vào bộ Chơn lý chuyển tải tư tưởng Phật học căn bản đã được đức Tổ sư Minh Đăng Quang trước tác có nội dung gần gũi, dễ đọc dễ nhớ, nên đã được đại trà quần chúng đón nhận. Có thể nói đây cũng chính là một trong những lợi thế để Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam ghi đậm dấu ấn vào công cuộc chấn hưng Phật giáo trong một giai đoạn lịch sử.
1.2 Về tư tưởng Phật học
Như chúng ta đã biết, bổn hoài của Đức Phật Thích-ca Mâu Ni chính là độ thoát chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, chính vì lẽ đó mà theo quan điểm của Đại thừa Phật giáo thì sự thành đạo của Đức Phật là kết quả của một quá trình hằng sa số kiếp không ngừng tu tập và thành tựu hạnh nguyện “vì xót thương chúng sanh”. Trong khi đó, đức Tổ sư Minh Đăng Quang ngay từ khi bắt đầu khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, ngài cũng đã đề cao mục đích độ sanh với tâm nguyện “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, có thể nói đây là mục đích tối hậu để hình thành nên hệ phái Khất sĩ. Qua đó chúng ta có thể khẳng định tư tưởng vì lợi lạc quần sanh, với tâm nguyện noi gương Phật Tăng xưa “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp” chính là tư tưởng Đại thừa của đức Tổ sư Minh Đăng Quang.
Xuất phát từ tâm nguyện đó, cùng với sự hình thành của Tăng đoàn Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam là sự ra đời của bộ Chơn lý gồm 69 tiểu phẩm, nội dung chứa đựng hai luồng tư tưởng Phật học Bắc truyền và Nam truyền Phật giáo được phối hợp rất hài hòa, đồng thời sự vận dụng linh hoạt tư tưởng của Đại thừa và nếp sống theo truyền thống Nam tông vào đời sống tu học của Tăng Ni đã tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng quần chúng nhân dân.
Tư tưởng Đại thừa nối truyền Chánh pháp Thích-ca của đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã được thể hiện qua hai nội dung căn bản của hệ phái Khất sĩ, đó chính là Pháp và Tăng.
Tăng, đó là sự kế thừa hành trạng của Phật Tăng xưa, hội nhập và phát triển không ngừng để rồi trở thành hệ phái Khất sĩ ngày nay.
Pháp, ở phần hồn, pháp là tư tưởng Đại thừa được dàn trải trong bộ Chơn lý, còn ở phần tướng, pháp là phương pháp tiếp cận đời sống con người bằng nếp sống khất thực của du Tăng Khất sĩ theo hạnh Tăng xưa nhằm truyền bá tư tưởng Phật học. Tổ sư Minh Đăng Quang đã rất coi trọng Pháp bảo, vì: “Pháp bảo là thầy của Phật, là thầy của Tăng và chúng sanh, vậy nên chúng ta mau mở trí ra mà chứa đựng Pháp bảo, vì trong đời Pháp bảo là quý hơn hết” [8].

Về phương cách hoằng pháp thì sự có mặt kịp thời của Đạo Phật Khất Sĩ do đức Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, trước hết đã định hướng phương thức tu nhân học Phật một cách cụ thể, phù hợp với căn cơ trình độ của đại đa số quần chúng đang khao khát con đường giải thoát, khai thông sự bế tắt trong đời sống tâm linh, tạo được niềm tin của quần chúng Phật tử đối với Đạo Phật, điều này đã góp phần to lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo trong bối cảnh xã hội đương thời.
Tinh thần vì lợi ích tha nhân, mang hạnh nguyện nhập thế độ sanh của tư tưởng Đại thừa Phật giáo đã được đức Tổ sư Minh Đăng Quang thể hiện trong quá trình hoằng pháp lợi sanh. Dù thời gian ngắn ngủi, chỉ vỏn vẹn 10 năm (1944 – 1954) vậy mà đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã để lại cho hậu thế nhiều thành quả đáng trân trọng, chẳng hạn như mở rộng đạo tràng phổ độ thế nhân; các đoàn Du Tăng Khất sĩ tỏa khắp mọi nơi, đến nơi nào thì thâu nhận đệ tử nơi đó, cứ thế chỉ trong một thời gian ngắn, đoàn Du Tăng phát triển lên đến cả trăm người; hệ thống tịnh xá xây dựng khắp cả miền Nam. Có thể nói, sự hình thành và phát triển nhanh chóng của giáo đoàn Du Tăng Khất sĩ và quần chúng Phật tử của hệ phái là một minh chứng thuyết phục về tinh thần nhập thế độ sanh của tư tưởng Đại thừa Phật giáo. Tính đến thời điểm hiện tại, trước sự lớn mạnh không ngừng của hệ phái Khất sĩ trong suốt gần 80 năm qua, đã cho chúng ta thấy đức Tổ sư Minh Đang Quang và các thế hệ kế thừa là những nhân tố rất tích cực, góp phần rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo.
Khi nhìn vào những đặc điểm nổi bật trong cách tổ chức, cũng như qua quá trình phát triển các giáo đoàn của hệ phái Khất sĩ, chúng ta sẽ nhìn thấy Tổ sư Minh Đăng Quang đã vận dụng sáng tạo, kết hợp hài hòa giữa hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông; chẳng hạn đối với việc kế thừa truyền thống Phật giáo Bắc tông, ngài thực hiện việc ăn chay nhằm tăng trưởng lòng từ bi thương xót muôn loài cũng như trợ duyên cho công phu tu tập; trong công tác tổ chức giáo đoàn, ngài đã thâu nhận đệ tử nữ giới, cho họ xuất gia, hình thành đoàn Ni giới của hệ phái. Về mặt giáo lý, bộ Chơn lý do đức Tổ sư Minh Đăng Quang trước tác được xem là bộ giáo lý đầu tiên của Phật giáo tại Việt Nam hoàn toàn được Việt hóa, là bộ giáo lý đầu tiên đã kết hợp và dung hòa được hai nền tảng giáo lý Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông. Đây là nét độc đáo đầu tiên về mặt giáo lý của hệ phái Khất sĩ, đáng chú ý là ngài đã tận tâm thuyết giảng Kinh Pháp Hoa, Kinh A-di-đà để triển khai về các khái niệm chơn như, Phật tánh… Còn đối với việc kế thừa truyền thống Phật giáo Nam tông, ngài đã chọn hình thức y bát, khất thực, ăn đúng giờ Ngọ theo truyền thống thời Đức Phật còn tại thế. Về mặt giáo pháp, ngài luôn nêu cao tinh thần y bát chơn truyền và chú trọng đến con đường tu tập thiền định, thiền tuệ hướng đến đạo quả A-la-hán.
Như chúng ta đã biết, đức Tổ sư Minh Đăng Quang xuất hiện và Đạo Phật Khất Sĩ ra đời trong bối cảnh đất nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, trình độ dân trí còn thấp kém, hiện tượng mê tín dị đoan phát triển tràn lan. Trong hoàn cảnh đó, phương cách tiếp cận quần chúng của các đoàn Du Tăng Khất sĩ, cũng như tính phổ thông của bộ Chơn lý đã đáp ứng được nhu cầu của đại đa số quần chúng. Theo đó, thông qua bộ Chơn lý được cô đọng súc tích bằng lối diễn đạt gần gũi, dễ hiểu mà không làm lệch đi chánh nghĩa, vì vậy mà bộ Chơn lý sớm trở thành kim chỉ nam tu hành cho chư Tăng Ni, Phật tử của hệ phái Khất sĩ trong suốt gần tám thập niên qua. Đây cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ giáo lý của hệ phái Khất sĩ có tên là Chơn lý.
Trong bộ Chơn lý, Tổ sư Minh Đăng Quang đã phủ nhận ngay những ý niệm phân biệt, phân chia giữa các tôn giáo có nền móng từ bản ngã; đồng thời nêu cao tinh thần hòa hợp vì mục đích lợi tha. Tư tưởng này đã được đức Tổ sư khẳng định: “Đạo là con đường của tất cả chúng sanh chứ không có tên gì cả. Giáo là sự dạy học để tu hành chứ không phải tôn giáo gì cả. Phái là sự làm việc, giúp ích cho nhau chứ không phải phái gì cả” [9]. Từ nhãn quan sâu sắc cùng với tấm lòng tha thiết độ sanh nên từ những ngày đầu hành đạo, Tổ sư Minh Đăng Quang đã mong mỏi sự thống nhất trong ngôi nhà Phật giáo, ngõ hầu đem lại lợi lạc cho quần sanh: “Sự thống nhất Tăng đồ nhà Phật trên thế giới lại để cứu thế, lập Niết-bàn hiện tại cho phải dịp… không có Đại hay Tiểu thừa gì, không có chia rẽ hơn thua chi chi nữa” [10]. Tư tưởng Đại thừa càng thể hiện rõ nét hơn khi Tổ sư đưa ra nhận định về Chơn lý: “Chơn lý là trường học chung của tất cả, không phải là đời hay đạo, không phải là tôn giáo, đảng phái, chủ nghĩa giáo phái nào cả” [11].
Khi nói về Đạo Phật, thông qua Chơn lý “Đạo Phật”, ngài diễn đạt rất ngắn gọn nhưng đã nói lên đầy đủ mục đích, ý nghĩa, cũng như bản chất của Đạo Phật: “Quyển Đạo Phật này có ra là để chỉ rõ con đường giác ngộ, bởi giác ngộ mới là Đạo Phật. Quyển Đạo Phật này ra đời với tính cách siêu nhiên, không cần dư luận, không thiên tư, không chỉ trích. Mà chơn lý, công lý, chỉnh đốn chấn hưng, giác ngộ, khuyến khích theo ý muốn của khắp người người” [12].
Nhận thấy tầm quan trọng của giới luật ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của Chánh pháp nói chung và của Phật giáo Khất sĩ nói riêng, nên ngay khi thành lập Tăng đoàn, đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã thiết lập hệ thống giới luật Khất sĩ giúp cho các mặt hoạt động của Tăng đoàn sớm đi vào nề nếp ổn định và làm nền tảng để phát triển hệ phái một cách bền vững. Luật nghi Khất sĩ gồm có Giới bổn Tỳ-kheo Tăng, Giới bổn Tỳ-kheo Ni, Giới Phật tử (thường gọi là giới Bồ-tát), Bài học Sa-di (môn oai nghi và những bài kệ chú nguyện), Pháp học Sa-di (Kệ giới, Mười giới tập sự Sa-di, Tứ y pháp Trung đạo), Bài học Khất sĩ (Nghi thức thọ trai và Nghi thức tụng kinh đều được đức Tổ sư biên soạn, tất cả đều lấy theo tinh thần của Luật Đàm-vô-đức bộ), Tỳ-kheo Tăng 250 giới, Tỳ-kheo Ni 348 giới. Thông qua hệ thống giới luật trong bộ Chơn lý, chúng ta thấy rõ là đức Tổ sư Minh Đăng Quang là vị Tổ rất chú trọng đến giới luật, điều mà chúng ta cần lưu ý đây là, bằng tâm chân thành, ngài tự thọ giới, tự thủ giới, thế nhưng ngài cùng một lúc vừa kế thừa được nền tảng giới luật Phật Tổ đã để lại vừa uyển chuyển để phù hợp với căn cơ cũng như hoàn cảnh của người học Phật thời nay. Bên cạnh đó, cách Việt hóa bộ luật thành chữ quốc ngữ và cách chọn lọc sắp xếp gọn gàng dễ hiểu cũng là nét đặc trưng của hệ phái Khất sĩ, đã được Tổ sư thể hiện sinh động trong bộ Chơn lý.
Nói đến những đóng góp của hệ phái Khất sĩ cho đạo pháp và dân tộc thì phải khẳng định rằng, các thế hệ kế thừa của Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp xương minh Phật pháp và sự nghiệp phát triển Giáo hội qua các thời kỳ. Gương điển hình là sự cống hiến hết mình cho Đạo pháp của Hòa thượng Thích Giác Toàn, bằng ý thức trách nhiệm cao cả, ngài tích cực tham gia công tác giáo dục Tăng Ni của Giáo hội trong nhiều thập niên không hề mỏi mệt. Hay như Ni trưởng Huỳnh Liên, vị Ni trưởng đã luôn thể hiện phẩm chất đạo đức về một tấm gương giới hạnh, là bậc danh Ni đầu tiên của hệ phái Khất sĩ và là vị đại diện tiêu biểu của Ni giới thời đại đã góp công rất lớn trong việc dẫn dắt Ni giới và Phật tử hệ phái Khất sĩ trên con đường chánh pháp, đồng thời đóng góp công sức vào quá trình tham gia thành lập và phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử.
2. Đóng góp cho dân tộc
Nếu như trong các thời kỳ đầu, kể từ ngày Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam được hình thành vào năm 1947 cho đến những năm 60 của thế kỷ trước, chúng ta có thể nói rằng, những đóng góp của hệ phái Khất sĩ cho đạo pháp cũng chính là cho dân tộc, vì đạo pháp được chấn hưng thì nhân tâm sẽ an lạc, theo đó đất nước, xã hội sẽ được bình yên. Từ những năm 60 của thế kỷ trước trở về sau này, những đóng góp của hệ phái Khất sĩ cho Đạo pháp trở nên cụ thể hơn, điển hình là sự dấn thân vào công cuộc đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc của Ni trưởng Huỳnh Liên chính là một tấm gương cụ thể và sinh động. Trong giới hạn của tham luận này, chúng tôi chỉ khái quát phần nào những đóng góp của Ni trưởng Huỳnh Liên cho đạo pháp trong một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc.
Như chúng ta đã biết, tại miền Nam nước ta trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975, bối cảnh xã hội có nhiều biến động, nhất là trước cảnh đồng bào và tín đồ Phật giáo chịu cảnh áp bức lầm than cùng với những bất công trong chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Sài Gòn thời bấy giờ; mang trong mình dòng máu yêu nước cùng với đức tính dấn thân dám chấp nhận mọi hiểm nguy gian khổ, Ni trưởng Huỳnh Liên đã tích cực vận động chư Ni, tín đồ Phật tử cùng tham gia vào các hoạt động đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và trường tồn đạo pháp. Trong giai đoạn này, tịnh xá Ngọc Phương do Ni trưởng Huỳnh Liên xây dựng trở thành trung tâm của Ni giới hệ phái Khất sĩ, nơi đây là cũng chính là một trong những tổng hành dinh gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tại Sài Gòn – Gia Định trước năm 1975 rất nổi tiếng mà Ni trưởng là vị lãnh đạo tiêu biểu của Ni giới.
Ngược dòng lịch sử, vào những năm 1963 của thế kỷ trước, khi chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, với tư cách là người đứng đầu Giáo hội Ni giới Khất sĩ, Ni trưởng đã lãnh đạo Ni giới Khất sĩ, trực tiếp dẫn đầu các đoàn biểu tình tham gia các phong trào đấu tranh đòi quyền tự do tín ngưỡng của Phật giáo; kết hợp với các phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh và nhân dân Sài Gòn – Gia Định, làm bùng phát khí thế đấu tranh mạnh mẽ, đã ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều địa phương khác tại miền Nam. Có thể nói rằng, khoảng thời gian dài từ năm 1963 cho đến những ngày cuối của tháng 4 năm 1975, các hoạt động đấu tranh đòi hòa bình thống nhất đất nước của đồng bào miền Nam và Tăng Ni, Phật tử yêu nước ngày càng sôi nổi và phong phú với nhiều hình thức đấu tranh, trong đó có các hoạt động đấu tranh do Ni trưởng Huỳnh Liên đứng ra tổ chức và trực tiếp xuống đường. Ni trưởng Huỳnh Liên không chỉ làm rạng danh Ni giới Khất sĩ nói riêng và hệ phái Khất sĩ nói chung mà còn tô đậm hình ảnh và tinh thần yêu nước nồng nàn của người dân nước Việt thời hiện đại, thể hiện sinh động vai trò trách nhiệm hộ quốc an dân của người con Phật. Trong giới hạn của tham luận này, chúng tôi chỉ nêu lên một vài sự kiện điển hình nhằm minh họa một chặng đường đấu tranh gian khổ nhưng sáng ngời ý chí đấu tranh kiên cường của một bậc nữ lưu, một thành viên ưu tú của hệ phái Khất sĩ giàu lòng yêu nước.
IV. TÓM TẮT
Theo nhận định chủ quan của chúng tôi thì Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam tuy không xuất phát từ Phật giáo Bắc tông, cũng không xuất phát từ Phật giáo Nam tông, nhưng điều thú vị ở Hệ phái Khất sĩ là đã thể hiện trọn vẹn sự kết hợp khéo léo, tinh tế và ứng dụng hiệu quả hai nền tảng giáo lý vào con đường tu hành của hệ phái một cách hài hòa, nhuần nhuyễn. Điều này khiến cho Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam mang nhiều ý nghĩa thực tiễn, vừa đáp ứng được nhu cầu tu nhân học Phật của đại đa số quần chúng nhân dân ở Nam bộ hướng đến con đường giác ngộ giải thoát của Đạo Phật. Chính sự vận dụng sáng tạo hai nguồn giáo lý Phật giáo này trong sứ mạng hoằng pháp độ sanh của đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã tạo nên nét đặc thù độc đáo của Đạo Phật tại Việt Nam.
Mặt khác, sự kiện đức Tổ sư Minh Đăng Quang tự tu, tự thọ giới, tự giữ giới, tự khai sáng mối đạo, thành lập giáo đoàn, mở đạo tràng thuyết pháp độ sanh mà không y cứ truyền thừa từ bất cứ một thiền phái nào hay bất kỳ một bậc chân sư nào, đã vượt ngoài nguyên tắc và truyền thống truyền thừa của Tăng-già từ bao đời nay, nhưng vẫn được Tăng-già công nhận là đoàn thể chính thức của Phật giáo; vinh dự trở thành một trong ba hệ phái nòng cốt (Bắc tông, Nam tông, Khất sĩ) của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đây quả là điều hy hữu từ cổ chí kim chưa từng có tiền lệ.
Qua đó, chúng ta thấy được Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, về bản chất, đây chính là Đạo Phật chơn truyền, vì trải qua bao thử thách cam go nhưng vẫn kiên định đường lối “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp, noi gương Phật Tăng xưa sống đời Phạm hạnh giải thoát” nên đã vượt qua những nguyên tắc căn bản của sự truyền thừa Phật giáo và khẳng định vị trí vững chắc bằng những đóng góp rất cụ thể vào sự nghiệp xương minh Phật pháp, cũng như phát triển Phật giáo nước nhà qua các giai đoạn lịch sử. Sự kiện này cũng cho thấy, chư Tôn đức giáo phẩm lãnh đạo các giáo hội Phật giáo qua các thời kỳ, nhất là Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thời đại ngày nay, đã linh động uyển chuyển, luôn đặt lợi ích của đạo pháp và dân tộc lên trên các nguyên tắc vốn có để ghi nhận một nhân tố tích cực trong môi trường đạo pháp.
Nhân dịp Đại lễ Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đức Tổ sư Minh Đăng Quang, bậc Tổ sư lỗi lạc đã khai sáng nên một hệ phái Phật giáo mang đậm bản sắc dân tộc Việt, đánh dấu bước ngoặc lịch sử về sự xuất hiện của ngài, xin ghi nhận thành quả mà ngài đã để lại là một hệ phái Khất sĩ ngày càng vững mạnh và phát triển, cùng những đóng góp của ngài đối với Phật giáo nước nhà trong một giai đoạn lịch sử và những đóng góp to lớn của các thế hệ kế thừa cho đạo pháp và dân tộc.
Chú thích:
[*] Hoà thượng Tiến sĩ Thích Huệ Thông, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Pháp chế Trung ương, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương.
[1] Hoa Ngọc (2013), “Những lời kể về Tổ sư Minh Đăng Quang”, nguồn Đạo Phật Khất Sĩ: www.daophatkhatsi.vn (truy cập ngày 10/3/2013).
[2] Thượng tọa Thích Giác Toàn, “Tổ sư Minh Đăng Quang với chí nguyện nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. TP HCM ấn hành, 2002, tr.42-8.
[3] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr.732.
[4] Theo Hòa thượng Thích Giác Toàn, các đệ tử đầu tiên của đức Tổ sư gồm có bốn đệ tử Tăng, sáu đệ tử Ni, một chú tiểu khoảng 10 tuổi
[5] Ngày 11/01/1958, Ni giới Hệ phái Khất sĩ chính thức có tư cách pháp lý pháp nhân bằng Nghị định số 7-BNV-NA-P5, về việc cho phép thành lập Giáo hội do Tham lý Nội An Vũ Tiến Huân ký, với danh xưng Giáo hội Khất sĩ Ni giới Việt Nam (Giáo hội Liên Hoa Khất sĩ), trụ sở đặt tại tịnh xá Ngọc Phương, nay là Tổ đình Ngọc Phương, phường 1, quận Gò Vấp, TP HCM.
[6] Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam, Hội Phật học Nam Việt, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy Việt Nam, Thiên Thai giáo quán tông; Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP HCM; Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam và Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ.
[7] Hệ phái Bắc tông, hệ phái Nam tông và hệ phái Khất sĩ.
[8] Chơn lý “Có và không”.
[9] Chơn lý “Trường đạo lý”, tr.329.
[10] Chơn lý “Chánh pháp”, tr.32.
[11] Chơn lý “Trường đạo lý”, tr.429.
[12] Chơn lý “Đạo Phật”, tr.329.
Tài liệu tham khảo:
1. Minh Đăng Quang (2015), Chơn lý, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
2. HT.TS. Thích Trí Quảng, HT.TS. Thích Giác Toàn, TS. Nguyễn Quốc Tuấn (chủ biên) (2016), Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, Hà Nội: Nxb. Hồng Đức.
3. Thượng tọa Thích Giác Toàn (2002), “Tổ sư Minh Đăng Quang với chí nguyện nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh”, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
4. Minh Thành (2017), Đọc Chơn lý – Nguồn mạch ngàn xưa, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
5. Hệ phái Khất sĩ (2017), Chơn lý – Luật nghi Khất sĩ, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
6. Hệ phái Khất sĩ (2019), Ánh Minh Quang, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
7. Thích Chúc Phú (2019), Nghiên cứu về những tương đồng giữa chân dung một vị Độc giác bằng hành trạng của Tôn giả Minh Đăng Quang, TP. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
8. Hoa Ngọc (2013) “Những lời kể về Tổ sư Minh Đăng Quang”, website Đạo Phật Khất Sĩ, www.daophatkhatsi.vn (truy cập ngày 10/3/2013).