DẪN NHẬP
Xưa nay, danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhiều người trong và ngoài nước rất ngưỡng mộ. Các bậc thức giả nhìn nhận Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hiền triết, một bậc túc Nho nhuần nhuyễn Kinh Dịch, một nhà lý số làu thông kinh Thái Ất, lại thấm nhuần Lão Trang nên đạt được thú nhàn lạc của một vị tiên phong đạo cốt và Ngài không bài Phật. Ông nhiều lần viếng chùa Phổ Minh, có lần đã cảm tác bài thơ thất ngôn bát cú, chữ Hán, 遊 普 明 寺 (Du Phổ Minh tự – Viếng chùa Phổ Minh) với ý từ sâu sắc, gợi mở vài vấn đề về lịch sử chùa và nơi phát tích Đế vương của họ Trần. Nhờ sách vở và phương tiện truyền thông hiện đại nên công chúng biết nhiều về chùa Phổ Minh, một danh lam cổ tự có tự thời Lý – Trần và từng trải qua nhiều thăng trầm trong suốt chiều dài lịch sử. Viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như chùa Phổ Minh khó có cái mới, tuy nhiên, tôi mạnh dạn trình bày những cảm thụ của mình khi tiếp cận bài thơ nêu trên và một số kiến giải riêng về những dấu hỏi mà tự bài thơ đặt ra.
BỐI CẢNH
Nguyễn Bỉnh Khiêm thuở thiếu thời sống trong cảnh thái bình thịnh trị thời vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông nhưng rồi vào tuổi thanh niên phải cùng bao nhiêu người, từ quan chí dân, sống trong thời loạn lạc điêu linh với hai vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực. Tệ nhất là vào tuổi trung niên, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống những năm tháng của thời Lê mạt, thời vua Lê Chiêu Tông, các đại thần kéo bè kết cánh, tranh bá đồ vương, giặc giã nổi lên như ong, vào ra kinh thành Thăng Long như đi chợ… Cuộc loạn Trần Cảo khởi phát ngay quê hương Hải Dương của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ảnh hưởng đời sống vật chất và tinh thần của ông. Mãi đến giai đoạn đầu nhà Mạc, từ năm 1527, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới được vui sống cảnh “thái hoà”.

DANH LAM CỔ TỰ
Vốn mộ Phật và đánh gia cao sự nghiệp của các vua Trần nên Nguyễn Bỉnh Khiêm lại khăn gói tìm thăm chùa Phổ Minh ở Tức Mặc Thiên Trường. Tác giả gieo vần: 亂 後 重 尋 到 普 明 (Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh – Sau loạn lại tìm đến Phổ Minh).
Chùa Phổ Minh (普 眀 寺 Phổ Minh tự) hay chùa Tháp là một ngôi chùa ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP. Nam Định, tỉnh Nam Định hiện nay. Sử chép chùa được xây dựng vào năm 1262, ở phía Đông chùa có cung Trùng Quang là nơi ở và làm việc của các Thái thượng hoàng nhà Trần. Nhưng theo các minh văn trên bia đá ở chùa thì chùa đã có từ thời Lý. Có thể, chùa được trùng tu tôn tạo từ năm 1262. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm trở lại viếng chùa thì cổ tự này đã trên dưới 300 năm, nhưng qua văn bia tác giả vẫn chưa rõ lịch sử ban sơ của chùa vào thời Lý.
Vì loạn lạc nên cư dân Tức Mặc – Thiên Trường lớp phải thành lính, lớp phải tránh loạn nên chùa Phổ Minh không được chăm sóc thường xuyên. Vì thế hoa mọc tự do, không bị cắt xén nghĩa là “nhàn hoa”. Còn các loài cỏ dại, dây leo tha hồ mọc um tùm như “dã thảo”. Chúng mọc thoải mái lan cả lối đi, chồm lên cổng chùa xây bằng đá. Chỉ cần 7 chữ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ cảnh tiêu điều của cổ tự, ít người lui tới đến nổi “cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày”, của một đại danh lam từng thuộc hàng quốc tự: 閑 花 野 草 满岩 扃 (Nhàn hoa dã thảo mãn nham quynh – Cổng đá đầy hoa cỏ linh tinh).
Đã viếng chùa ắt có đốt nhang lễ bái, trong đó có nhà bia cổ dựng từ thời vua Trần Thánh Tông ghi lại lịch sử chùa. Chữ khắc minh văn vốn đã mòn, lại thêm rêu bám, tơ nhện giăng lâu ngày thì phải cạo, chùi ,… những thứ ấy rơi có, bay có một cách “bác lạc” . Khói nhang màu xanh biếc quyện lẫn rêu bụi của bia đã làm mờ văn khắc trên mặt bia cổ. Thực ra minh văn trên bia Nguyễn Bỉnh Khiêm từng đọc trong những lần viếng thăm trước loạn lạc nhưng giờ đây với tâm cảm chứng kiến quang cảnh hoang phế của “danh lam cổ tự”, lại thắc mắc lai lịch chùa, tác giả viết câu thứ hai đầy “bức bối”: 碑 文 剝 落 和 煙 碧 (Bi văn bác lạc hoà yên bích – Văn bia mờ theo khói biếc xanh).
Thiết nghĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm mượn khói xanh biếc để nói lòng thành của cụ khi viếng chùa, tha thiết muốn tìm hiểu lai lịch chùa một cách tường tận. Khổ nỗi người xưa viết minh văn đã nói chùa “dựng thời Lý” nhưng không cho biết ai dựng, nhà nước dựng hay dân sở tại đóng góp để dựng? Lúc bấy giờ chẳng có sách vở ghi chép về chùa ban sơ nên một người say mê “nghiên cứu” như cụ Trạng Trình không “bức bối” sao được!
Nhân đây, chúng tôi thử đưa một giả thuyết về lai lịch chùa, gắn liền hành trạng của cụ tổ họ Trần khi đến định cư ở Tức Mặc. Theo tác giả Đào Trần Quang Cát trong bài viết “Tìm hiểu gốc tích họ Trần, Họ Trần tộc Mân Việt dòng Bách Việt”: Căn cứ vào gia phả họ Trần ở Lạc Dương do Trần Ích Tắc soạn thảo, thống tôn đời 27 Trần Đình Nhân còn lưu giữ được, gốc tích xa xưa thời chiến quốc, họ Trần thuộc nhóm tộc người Bách Việt sống ở đất Mân (Phúc Kiến – Trung Quốc ngày nay). Năm 227 TCN, Phương Chính hầu Trần Tự Minh vì mâu thuẫn giữa người Hán và người Việt, đã theo dòng người Bách Việt di cư xuống phía Nam. Trần Tự Minh được vua An Dương Vương thu nạp, trở thành vị tướng tài ba cùng Cao Lỗ giúp chống lại Triệu Đà. Khi thành Cổ Loa thất thủ, đất nước rơi vào tay cha con Triệu Đà, Trần Tự Minh lui về sống ẩn dật ở đất Kinh Bắc, hậu duệ phân ra nhiều nhánh.
Dòng thống tôn đến đời Trần Tự Viễn (582-637) nổi lên như một nhân tài kiệt xuất ở xứ Giao Châu. Trần Tự Viễn được sư Pháp Hiền thu nạp, yêu mến dạy cho học thông tam giáo (Phật, Nho, Lão) và cả võ công. Sau nhiều năm tu luyện, Tự Viễn trở thành môn đệ xuất sắc nhất của phái Thiền tông và cũng rất nổi tiếng võ công cao cường.
Họ Trần dòng thống tôn có chữ đệm là “Tự” cư ngụ ở Kinh Bắc, truyền đến đời Trần Tự An (1010-1077) mỗi ngày thêm hiển hách trong giới võ lâm của Đại Việt. Để phân biệt với các võ phái khác, Tự An đặt tên cho võ phái của mình là Đông A, chiết tự chữ “Trần” ra hai chữ “Đông và A” mà thành.
Trước khi qua đời, Trần Tự An khuyên con trai là Trần Tự Mai nên tìm cách chuyển võ đường Đông A đi một nơi khác để tránh xung đột với võ khác. Lúc đầu Trần Tự Mai chuyển đến ở Đông Triều – Chí Linh. Sau đó đến đời con là Trần Tự Kinh (tên nghĩa là Kình) quyết chí đi khẩn hoang ở châu thổ sông Nhị Hà. Mười năm đầu Trần Tự Kinh dựng trại ở Tức Mặc (phủ Thiên Trường, Nam Định) với hai con trai rất giỏi võ là Trần Tự Hấp và Trần Tự Duy. Về cuối đời, ông nghe theo người con trưởng là Trần Tự Hấp chuyển hẳn về ấp Thái Đường (phủ Long Hưng, Thái Bình), định cư lâu dài, có nhiều ân đức với dân trong vùng. Đến đời Trần Tự Hấp (tên nghĩa là Trắm) kế tục làm Trưởng môn phái Đông A, thanh thế họ Trần đã rất lớn.

Như thế, Ngài tổ Trần Tự Kinh đã đến dựng trại ở Tức Mặc, vùng sông sâu hồ rộng, sinh nhai bằng nghề đánh cá và lập lò võ khoảng thời vua Lý Thánh Tông. Thường tình đã có lò võ ắt có lập bàn thờ Phật, Thánh, Tổ sư phái võ. Ngài Trần Tự Kinh đến Tức Mặc thì từng biết có người đánh cá Nguyễn Chí Thành đã phát tâm bồ đề, bỏ nghề cá để theo thầy Thảo Đường tu Phật và đã đắc đạo; ấy là Không Lộ thiền sư nổi tiếng một thời. Sau khi rời Tức Mặc, chắc chắn ngài Trận Tự Kinh vẫn lưu giữ chùa và cắt cử con cháu hoặc đệ tử ở lại trông coi. Và khi về Thái Đường Ấp, họ Trần làm ăn phát đạt liền tôn tạo chùa cũ bề thế hơn. Có thức giả tranh biện Tức Mặc hay Thái Đường là nơi phát tích vương triều Trần? Thực ra Tức Mặc phát tích nhờ “dương cơ” còn “Thái Đường” là nơi phát tích nhờ “âm phần”. Điều này các vua Trần đã hành xử hợp lý khi lên Thái thượng hoàng thì về cung điện Trùng Quang, tu tập là ở Tức Mặc, còn khi băng hà thì dặn con cháu táng ở Thái Đường.
CẢM HOÀI TRƯỚC NGÔI CỔ TỰ
Đứng trước cảnh hoang phế của chùa cố, tác giả không thể quên những đau thương mất mát của dân chúng vài chục năm trước, lòng buồn nên thấy mắt tượng Phật cũng nhuốm buồn. Người tạc tượng bao giờ cũng thể hiện mắt Phật đang “phi tâm tưởng”, “bất ưu”, “vô ngại”, thế nhưng cụ Trạng Trình thật táo bạo khi biểu đạt “Phật nhãn thê lương”: 佛 眼 淒 涼 照 夜 清 (Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh – Mắt Phật buồn nhuốm cả đêm thanh).
Tâm cảm Nguyễn Bỉnh Khiêm không như hàng trăm năm trước vua Trần Thánh Tông cũng trong cảnh vật ấy từng viết 行天長行宮(Hạnh Thiên Trường hành cung – Dạo chơi hành cung Thiên Trường) với trạng huống thư thái và vui mừng vì đã quét sạch quân Nguyên – Mông tàn bạo ra khỏi Đại Việt, ngài viết 景清幽物亦清幽 (Cảnh thanh u vật diệc thanh u – Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,)…四海已清塵已靖 (Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tịnh – Bốn bể đã trong, nhơ đã lắng,), 今年遊勝昔年遊 (Kim niên du thắng tích niên du – Năm nay chơi, thú vượt năm nao.).
Chùa cũng là một sự vật trong thế gian như hằng hà sa số sự vật thấy được và không thấy được, nghĩa là trong “Pháp giới” theo quan điểm nhà Phật. Thế thì chùa cũng là sự vật sinh thành bởi trời rộng bao la vô cùng vô tận theo quan điểm dịch lý của Nho giáo. Dịch lý cho rằng vũ trụ vạn hữu thiên hình vạn trạng, tưởng chừng như hỗn độn vô trật tự nhưng sự tồn tại và biến hoá của chúng điều theo sự chi phối của cơ trời. Nhà Phật thì cho rằng trong pháp giới mọi sự vật đều biến hoá theo định luật “sinh, trụ, dị, diệt” hoặc là “thành, trụ, hoại, không”, nghĩa là vũ trụ vạn hữu là do nhân duyên hoà hợp nhau mà sinh thành nhưng tất thảy là hư huyễn vô thường, không thật có và vĩnh cửu. Về vũ trụ quan này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sở đắc, thấy được pháp giới nhà Phật và trời của Nho học là đồng nhất, tác giả gieo bút: 法 界與 同 天 廣 大 (Pháp giới dữ đồng thiên quãng đại – Trời rộng lớn khác chi Pháp giới).

Lần nào viếng chùa Phổ Minh, tác giả cũng nghe dân sở tại nói về hương Tức Mặc là cát địa, đất phát của họ Trần. Thế thì trời đất tụ khí ở Tức Mặc, họ Trần tự Đông Triều về đây, “cảm ứng cộng hưởng” do “dương cơ” rồi phát triển về Thái Đường thịnh về “âm phần” làm nên nghiệp đế lẫy lừng gần 200 năm nhưng rồi cũng tàn. Nguyễn Bỉnh Khiêm càng củng cố thêm thế giới quan của mình. Khi nghĩ về phong thuỷ Tức Mặc – Thiên Trường, cụ viết: 土 人 猶 説 地 英 靈 (Thổ nhân do thuyết địa anh linh – Người làng còn nói đất anh linh).
Sau khi lên ngôi vào năm 1225, Trần Thái Tông sớm dựng hành cung Tức Mặc để nhà vua khi có điều kiện về thăm cố hương nghỉ ngơi. Con cháu nhà Trần nói riêng và những tộc họ khác phát triển nên năm 1262 vua Trần Thánh Tông nâng Tức Mặc thành phủ Thiên Trường. Huyền thoại kể rằng, thuở xưa, do có lòng nhân, Trần Hấp cứu ông thầy địa người Tàu, bị thân chủ ác độc Nguyễn Cố thủ tiêu, nên ông thầy địa người Tàu bày mưu đưa hài cốt tổ tiên họ Trần thay vào huyệt tốt mà ông thầy địa đã tìm cho họ Nguyễn ở Thái Đường. Trần Hấp về định cư ở Thái Đường sinh Trần Lý thì họ Trần Thái Đường trở nên hào phú. Trần Lý sinh Trần Tự Khánh, Trần Thừa, Trần Thị Dung… Một người em họ của Trần Lý lại sinh Trần Thủ Độ… Tương truyền do cát địa thuộc loại “phấn đại dương giao chiếu, liên hoa đối diện sinh, tha nhật dĩ sắc đắc thiên hạ”, nghĩa là địa cuộc tốt này được phấn son cùng chiếu rọi, phía trước mặt có hoa sen nở, về sau lấy được thiên hạ là nhờ có người trong họ có nhan sắc.
Người đời luôn biết Tức Mặc là đất phát tích đế vương họ Trần, song trong lịch sử còn lưu lại sự kiện tương truyền: Đại Nam nhất thống chí chép: “Tương truyền cửa kênh Phụ Long, tức kênh Phù Lộng, từ chỗ này đến sông Vị Hoàng nguyên trước là đất bằng, chỉ có một con khe nhỏ chảy vào cầu Vĩnh Tế quang đằng sau hương Tức Mặc, chảy qua cầu Gia Hòa ra cửa kênh Tiểu Cốc, rồi đổ vào sông An Tiêm. Đến cuối đời Trần vì lầm lẫn về địa lý, mới đào từ kênh Phụ Long xuống đến sông Vị Hoàng, dẫn nước đổ thẳng vào sông An Tiêm để chầu vào hương cũ Tức Mặc, làm đứt mất địa mạch, khiến cơ nghiệp nhà Trần suy sụp, cho nên ngạn ngữ nói: “Thử hỏi Tức Mặc, họ Trần mấy vương? Không đào kênh Lộng, ngàn thuở vững vàng!”. Ý tiếc cho họ Trần bị thầy địa lý đánh lừa đến nỗi ngôi vua không bền. Sông này khi mới khai vừa nông vừa hẹp, bắc cầu bằng đá để qua, sau vì nước chảy xiết thành sâu rộng, nay vận tải đường biển dều do sông này để ra cửa Liêu” (ĐNNTC, tập 3, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr.341). Trên 800 năm sau, các nhà khảo cổ đã tiến hành khảo cổ và thu được những hiện vật minh chứng sự tồn tại hành cung Tức Mặc – Thiên Trường trong lịch sử.
Nhờ đọc văn bia, hỏi han dân Tức Mặc trong những lần viếng chùa Phổ Minh, Nguyễn Bỉnh Khiêm nay không thấy vạc Phổ Minh ngày xưa nhưng vẫn còn thấy cái bệ đá kê vạc. Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) nhân dịp vua Trần Thánh Tông tòng giá Thái thượng hoàng Trần Thái Tông về thăm Tức Mặc. Thời Trần Thái Tông đã cho dựng hành cung Tức Mặc, gần chùa Phổ Minh để hoàng tộc nhà Trần về Tức Mặc ở thăm và lễ Phật ở Phổ Minh. Đến năm 1262, Phổ Minh tự – Cung Trùng Quang (Thái thượng hoàng ngự) – cung Trùng Hoa (vua ngự) trở thành một quần thể gọi là “Thiên Trường hành cung”. Như thế, vạc đồng to lớn đâu phải chỉ có ý dựng trước chùa mà thực ra là vạc dựng chung ở hành cung Thiên Trường vậy. Như thế, ngày 17 tháng Ba năm Mậu Tý (18/4/1288), sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng, triều đình đã đem các tướng giặc bị ta bắt đưa về phủ Long Hưng để làm lễ Hiến tiệp (lễ dâng mừng thắng trận) ở Chiêu Lăng (lăng mộ vua Trần Thái Tông) thì đoàn ngự đạo phải đến hành cung Thiên Trường lễ bái và nghỉ ngơi. Vua Trần Nhân Tông vẫn còn chứng kiến vạc đồng đã rất hoan hỉ, thế nên khi đến Chiêu Lăng vua thấy chân voi đá và ngựa đá ở đây đều lấm bùn (vì trước đó, bọn giặc đã tràn qua đây, định đào phá Chiêu Lăng mà chưa kịp làm) nên tức cảnh mà ứng tác hai câu : 社稷兩回勞石馬,山河千古奠金甌 (Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/Sơn hà thiên cổ điện kim âu – Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/Non sông nghìn thuở vững âu vàng). Nhưng Kim Âu – Cổ Đỉnh chỉ tồn tại đúng 165 năm, vì tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), tướng xâm lược Vương Thông của nhà Minh, khi bị vây ở Đông Quan đã lệnh phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí. Trên dưới 100 năm, bên bệ đá đỡ vạc đang còn nhưng vạc đã mất, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang mang tấc dạ đã viết: 寥 寥 古 鼎 今 何 在 (Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại – Miên man vạc cũ nào đâu tá?).

Pháp giới bao gồm các vật, sự vật và đạo lý; phân thành vật hữu hình và vô hình. Hữu hình là “vật thể” mà con người cảm nhận trực tiếp bằng xúc giác, còn vô hình là vật thể mà con người không cảm nhận được trực tiếp nhờ xúc giác là “phi vật thể”. Hoa, cỏ, bia đá, tượng Phật, vạc đồng,… là vật hữu hình nhưng theo thời gian ngắn hoặc dài cũng hư hoại, tan rã. Còn công tội của một vương triều dẫu vô hình nhưng trường tồn trong sử sách, trong ký ức dân gian. Kinh sách nói điều trên đã đành nhưng bình dân cũng từng nhận đinh: “Trăm năm bia đá thì mòn/Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Tác giả đã kết bài thơ với tư tưởng từng sở đắc trong kinh điển và thực chứng khi viếng chùa Phổ Minh:
識 得 無 形 勝 有 形 (Thức đắc vô hình thắng hữu hình – Mới hay vô hình thắng hữu hình)
遊 普 明 寺 (Du Phổ Minh tự – Viếng chùa Phổ Minh).
亂 後 重 尋 到 普 明 (Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh – Sau loạn lại tìm đến Phổ Minh).
閑 花 野 草 满岩 扃 (Nhàn hoa dã thảo mãn nham quynh – Cổng đá đầy hoa cỏ linh tinh).
碑 文 剝 落 和 煙 碧 (Bi văn bác lạc hoà yên bích – Văn bia lờ mờ theo khói biếc).
佛 眼 淒 涼 照 夜 清 (Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh – Mắt Phật buồn nhuốm cả đêm thanh).
法 界與 同 天 廣 大 (Pháp giới dữ đồng thiên quãng đại – Trời rộng lớn khác chi Pháp giới).
土 人 猶 説 地 英 靈 (Thổ nhân do thuyết địa anh linh – Người làng còn nói đất anh linh).
寥 寥 古 鼎 今 何 在 (Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại – Miên man vạc cũ nào đâu tá?).
識 得 無 形 勝 有 形 (Thức đắc vô hình thắng hữu hình – Mới hay vô hình thắng hữu hình).
THAY LỜI KẾT
Bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm tác khi viếng chùa, tác giả đã dùng các cụm từ mang tính “triết học” khiến chúng tôi nghĩ tác giả đang nhờ thực tại để chiêm nghiệm những “minh triết” mà Ngài sở đắc từ kinh điển. Đọc và nghiền ngẫm bài thơ, chúng tôi mới hiểu rằng tác giả ngầm ca ngợi vương triều Trần với các vua đầu triều. Thật vậy, Phổ Minh tự là một công trình thuộc hành cung Thiên Trường của nhà Trần, có vạc lớn, có tháp Phổ Minh. Nơi hành cung này các Thái thượng hoàng Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông về nghỉ ngơi và hành thiền. Có thượng hoàng giác ngộ như Trần Thái Tông từng viết Khóa hư lục, Thiền tôn chỉ nam, tuyệt nhất là Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đã tạo dựng thiền phái Trúc Lâm. Như thế trong pháp giới các ngài thượng hoàng là những vị đại giác ngộ, “vua” của một thiền phái Phật giáo. Nhưng hành cung Thiên Trường lại là nơi ở và làm việc của các Thái thượng hoàng, vẫn thường xuyên giám sát hành trạng của các vua con, vẫn có quyền chế ngự những sai trái của triều đình Thăng Long; như thế các Thái thượng hoàng vẫn là thiên tử theo Nho giáo. Các cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thành công rực rỡ chắc chắn vua tôi từng bàn bạc kế hoạch điều binh khiển tướng, tích trữ và điều phối lương thực, vũ khí,… là ở hành cung Thiên Trường.
Đến khi Nguyễn Bỉnh Khiêm viếng chùa và cảm tác bài thơ thì trên dưới 300 năm, triều Trần, triều Lê cũng đã thành rồi hoại, trụ rồi diệt, đỉnh chung cũng phải bị nấu chảy nhưng những công trạng chói lọi của triều Trần vẫn được hậu thế tôn vinh trong sử sách. Từ việc phân tích ý từ bài thơ “Du Phổ Minh tự” của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể hiểu sự kiện công chúa nhà Mạc là bà Mạc Thị Ngọc Lâm đã tu bổ chùa Phổ Minh và về già đến tu học ở chùa Phổ Minh là chịu ảnh hưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Khuê (1997), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch vân am thi tập, Nxb. TP Hồ Chí Minh.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
3. Đào Trần Quang Cát, Tìm hiểu gốc tích họ Trần, Họ Trần tộc Mân Việt dòng Bách Việt, Website Dòng họ Trần Nguyên Hãn Việt Nam.
4. Lương Hà, Về Nam Định thăm ngôi chùa tháp 700 tuổi bằng gạch cao nhất Việt Nam, Chuyên trang báo Lao Động, 13/8/2023.