Tìm một triết lý cho mục đích giáo dục con người – Ngô Tự Lập

 

Muốn có một nền giáo dục tốt thì phải có một triết lý giáo dục đúng đắn. Nhưng thế nào là một triết lý giáo dục đúng đắn? Theo tôi, mọi triết lý giáo dục phải trả lời một câu hỏi: Chúng ta muốn (hay phải) đào tạo những con người như thế nào? Lời đáp cho câu hỏi này là tiền đề để trả lời câu hỏi thứ hai, “Làm thế nào để đào tạo được những con người chúng ta mong muốn?” Để trả lời hai câu hỏi này, cần xuất phát từ một nền tảng triết học về con người, tức là phải trả lời một câu hỏi khác: “Bản chất con người là gì và mối quan hệ của nó với tự nhiên và xã hội ra sao”.

Các quan điểm triết học về giáo dục

Các nền triết lý giáo dục có thể được phân loại theo nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, hai quan điểm thường gặp nhất là quan điểm nhân tính và quan điểm nhận thức luận.

Quan điểm nhân tính xuất phát từ câu hỏi: bản chất con người là tốt hay xấu. Nếu quan niệm như Tuân Tử rằng “nhân chi sơ tính bản ác”, hoặc như Thánh Paul rằng “Cả loài người đều phạm tội và bị án phạt” , thì giáo dục là quá trình xóa bỏ những cái xấu có sẵn trong bản chất con người. Đó là nền giáo dục rửa tội và thanh lọc tâm hồn.

Ngược lại, nếu quan niệm như Plato hay Mạnh Tử, rằng “nhân chi sơ tính bản thiện” và chỉ trở nên xấu xa do ảnh hưởng của xã hội, thì giáo dục chính là quá trình chống lại ảnh hưởng tiêu cực của xã hội. Cũng có trường phái khác, quan niệm như Aristote và John Lock, rằng con người sinh ra bản chất không tốt mà cũng không xấu, có thể ví như một tấm bảng trắng (“tabula rasa”). Khi đó, giáo dục là quá trình viết nên, hay tạo ra, nhận thức và tính cách. Quan điểm nhận thức luận xuất phát từ câu hỏi: con người có khả năng hiểu được thế giới hay không? Thuyết khả tri trả lời khẳng định và có thể chia ra làm hai nhánh: Thuyết khả tri nhân văn và Thuyết khả tri tôn giáo.

Đại diện điển hình cho Thuyết khả tri nhân văn là Immanuel Kant. Ông cho rằng con người sinh ra ai cũng có một khả năng siêu việt gọi là “lý trí” để phân biệt chân-thiện-mỹ, nhưng phần lớn hèn nhát không dám sử dụng và vì thế vẫn là những kẻ “vị thành niên về mặt trí tuệ”. Kant chủ trương rằng giáo dục phải là quá trình giúp con người dũng cảm sử dụng lý trí một cách tự do: đó là nền giáo dục “Khai sáng”. Những người theo Thuyết khả tri tôn giáo (đúng hơn là của một số tôn giáo) đồng nhất chân lý với Chúa Trời. Với họ, giáo dục là quá trình tiếp cận chân lý thông qua việc học kinh sách, vốn là ý Trời được truyền tải qua các nhà tiên tri. Nền giáo dục tôn giáo có đặc điểm là không cho phép người học nghi ngờ kinh sách.

Thuyết bất khả tri cho rằng con người quá nhỏ bé và chỉ là một phần của thế giới, vì thế không thể hiểu được thế giới, rằng chân lý chỉ là những giả định tương đối mang tính tình huống. Giáo dục, do đó, là quá trình tiếp nhận các hiểu biết mang tính công cụ và hình thành các kỹ năng thích ứng chứ không phải là đi tìm chân lý. Quan điểm này có thể thấy, trong chừng mực nhất định, ở triết lý giáo dục thực dụng luận.

Ba hình thái con người giáo dục

Tuy nhiên, nhiệm vụ cốt lõi của mọi nền giáo dục, trong đó có giáo dục Việt Nam, là đào tạo ra những con người với ba chiều kích, đó là: 1) Con người lao động; 2) Con người yêu nước; và 3) Con người tự do. Nó cách khác, giáo dục phải có Tính hướng nghiệp, Tính dân tộc và Tính nhân loại.

Con người lao động là chiều kích căn bản nhất nhưng cũng là cấp độ thấp nhất. Con người được tạo ra, nói như Engel, nhờ lao động: con người khác con vật nhờ các quan hệ xã hội và những đối tượng chưa từng tồn tại trước đó do chính nó tạo ra. Hơn thế nữa, tính sáng tạo và trình độ tổ chức xã hội trong lao động quyết định sự phát triển của con người. Vì thế, dạy nghề – tức là rèn luyện những kỹ năng lao động hiệu quả nhất trong một bối cảnh lịch sử nhất định – là mục đích đầu tiên của giáo dục.

Con người dân tộc, chiều kích thứ hai, xuất phát từ thực tế là con người không tồn tại chung chung mà luôn gắn liền với một cộng đồng cụ thể, từ quy mô gia đình đến quy mô một dân tộc – với những ký ức, kinh nghiệm và cơ sở vật chất mà chúng ta thường gọi là một nền văn hóa. Sự phát triển của cá nhân dựa trên, và được quy định bởi, các quan hệ cộng đồng. Ngược lại, mỗi cá nhân đều là một sự thể hiện cụ thể của cộng đồng ấy. Vì thế, mục đích thứ hai của giáo dục bồi đắp nhân cách văn hóa dân tộc.

Mục đích cao nhất của giáo dục là đào tạo những thành viên tự do và bình đẳng của thế giới (cả theo nghĩa nhân loại và vũ trụ). Hai phạm trù tự do và liên quan chặt chẽ với nhau: chỉ những người tự do mới bình đẳng, và chỉ bình đẳng mới có thể có tự do. Nhưng thế nào là tự do? Tự do, theo tôi, là ý chí và năng lực của một cá nhân để đạt đến giới hạn phát triển tối đa về tinh thần và vật chất trong mối tương quan với tự nhiên, xã hội và bản thân.

Tự do bao gồm tự do vật chất (sự thoát khỏi những ràng buộc vật chất, như đói khát, bệnh tật, rào cản không gian, thời gian…) và tự do tinh thần (sự thoát khỏi các ràng buộc tinh thần để vươn tới chân lý, sự thật, cái mới, cái đẹp và sự khác biệt). Tự do không phải là vô điều kiện, mà luôn dựa trên sự hiểu biết và tôn trọng các giới hạn trong mối tương quan giữa bản thân mình với xã hội và tự nhiên. Vì thế, mục đích thứ ba, cũng là mục đích cao nhất của giáo dục, mang tính nhân đạo và giải phóng.

Khắc phục tình trạng học quá nhiều, biết quá ít

Làm sao để đào tạo được con người tự do, có kỹ năng lao động và mang bản sắc dân tộc? Ở đây, tôi muốn đề cập đến một số điểm của chương trình giáo dục phổ thông.

Trước hết là là đào tạo con người tự do. Một cá nhân muốn tự do thì phải hiểu mình, hiểu người và hiểu vật. Điều này hàm ý rằng chúng ta phải đánh giá đúng mức một số môn học. Để hiểu người và hiểu vật, chúng ta phải học về thế giới quan và nhân sinh quan, đặc biệt là triết học, có nhiệm vụ trang bị cho học sinh hiểu biết về xã hội và thế giới cũng như về vị trí của con người trong xã hội và thế giới. Thông qua việc tiếp cận các hệ thống triết học, người học thụ đắc những kiến giải sắc bén và tư duy đa chiều. Tuy nhiên, cách giảng dạy triết học của chúng ta hiện nay còn nặng tính tầm chương trích cú. Chúng ta cũng phải nhận thức lại về vị trí của một số môn bị coi là “phụ”, như thể dục hay sinh lý người (vệ sinh thân thể, tình dục, v.v…). Sự thiếu hiểu biết về chính cơ thể mình dẫn đến nhiều vấn đề nhức nhối của thanh thiếu niên hiện nay. Với môn thể dục cũng vậy, bởi không thể có được tự do ở một người ốm yếu!

Để đào tạo con người dân tộc, chúng ta cần phải đặt lên hàng đầu các môn học có tác dụng cung cấp kiến thức và bối đắp tâm hồn dân tộc. Các môn học đó là Văn chương, Lịch sử và Địa lý Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động dẫn hướng của kỳ thi tốt nghiệp, các môn Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh vật hiện nay được đề cao quá mức, dẫn đến lãng phí thời gian và tiền bạc của học sinh, đồng thời gây quá tải cho chương trình. Thử hỏi, ngoài các chuyên gia, trong chúng ta mấy ai còn nhớ và cần nhớ cách tính “sin”, “cos”, đạo hàm, hay những công thức hóa học hữu cơ? Trong khi đó, chúng ta phải làm chủ tiếng Việt để tư duy, viết và nói thành thạo bằng tiếng Việt, phải tuân thủ phong tục, tập quán và pháp luật Việt Nam, và trên hết là phải sống và ưu tư cùng với lịch sử và những vấn đề tồn vong của đất nước. Riêng với môn Địa lý Việt Nam, ngoài những phần về địa hình, hành chính và kinh tế, theo tôi, chúng ta nên có thêm phần địa lý văn hóa các dân tộc thiểu số anh em trên đất nước ta.

Việc xem xét lại chương trình và thời lượng của các môn học cũng liên quan đến vấn đề dạy nghề, bao gồm dạy kiến thức và kỹ năng làm việc (các môn chuyên ngành và ngoại ngữ) và dạy qui tắc làm việc (Luật, Đạo đức). Có một thực tế mà rất nhiều tác giả đã nói: học sinh của chúng ta học quá nhiều mà lại biết rất ít, khả năng làm việc là càng ít hơn hơn nữa. Ngoài ra, các em rất ít được học về pháp luật. Trên thực tế, các em rất kém về kiến thức pháp luật, thậm chí ngay cả luật giao thông. Lý do chính là điều tôi đã nói ở trên: các em phải học quá nhiều kiến thức thật ra không cần thiết, trong khi lại không có đủ thời gian để tập trung vào lĩnh vực chuyên sâu hoặc kiến thức cần thiết cho cuộc sống hàng ngày.

Vì thế, theo tôi, chúng ta chỉ nên áp dụng một chương trình thống nhất và bắt buộc cho đến hết Phổ thông cơ sở (lớp 9). Ở bậc Phổ thông Trung học (lớp 10, 11, 12), chúng ta nên phân loại học sinh theo các ban chuyên ngành, chẳng hạn 1) Ban khoa học tự nhiên, 2) Ban khoa học xã hội, 3) Ban nghệ thuật và 4) Ban phổ thông. Các ban 1, 2 và 3, với số lượng học sinh hạn chế, có nhiệm vụ chuẩn bị để đào tạo các chuyên gia hoặc nghệ sĩ, còn Ban phổ thông chiếm đa số, có mục đích đào tạo những công dân phát triển toàn diện cho các hoạt động kinh tế, xã hội nói chung.

Chú thích:
* Viện Quốc tế Pháp ngữ – IFI)

. Tân ước, “Thơ của Phao-lô gởi cho người Rô-ma”, 1:18.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *