Từ ngày Phật giáo Việt Nam thống nhất cả nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập (1981-2021) đến nay đã 40 năm, với 2 vị Pháp chủ đã lần lượt nhẹ gót về Tây. Đức đệ nhất Pháp chủ Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Đức đệ nhị Pháp chủ Hòa thượng Thích Tâm Tịch, sự hiện diện của mỗi vị đã đóng một vai trò đặc biệt trong lịch sử phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Đức đệ nhất Pháp chủ Hòa thượng Thích Đức Nhuận đã xây dựng thành công ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam và lãnh đạo tối cao về Đạo pháp, làm long tượng, kỷ cương cho các sinh hoạt của Giáo hội và quy hướng cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước. Hoà thượng tại vị hơn 2 nhiệm kỳ (1981-1993), thế rồi khi công tròn quả mãn, Ngài ra đi tự tại trong cõi đời hóa hóa sinh sinh, xem sinh tử là việc nhàn. Như Từ Minh Pháp sư đã nói: “Sinh như thể đắp chăn Đông. Thác như cởi áo Hạ nồng khác chi. Xưa nay các pháp hữu vi. Không sao tránh khỏi hiệp ly vô thường. Một khi ngộ lý chân thường. Pháp thân hiển hiện mười phương chan hòa”. Tuy Hòa thượng đã “quy Tây” nhưng công đức và đạo hạnh của Hòa thượng vẫn còn hiện hữu trong lòng người con Phật Việt Nam và trang sử vàng son của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Kế thừa sự nghiệp cao cả của Đức đệ nhất Pháp chủ, Hòa thượng Thích Tâm Tịch đệ nhị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1997-2005) là một sự hiện diện có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tiếp tục duy trì và phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam, liên kết cả hai nhiệm kỳ của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI của nhân loại. Có thể thấy ân đức và sự hiện diện của Ngài vô cùng to lớn cho Phật giáo nước nhà. Từ năm 1981, Hòa thượng là thành viên của Đoàn đại biểu Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam tham dự Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam và trở thành một thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng là một viên gạch kiên cố, góp phần xây dựng thành công ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, dù chỉ là một cử chỉ nhỏ, một việc làm nhỏ, nhưng giá trị vô cùng lớn lao. Chính sự hiện diện của Hòa thượng đã góp phần cùng với chư Tôn đức lúc bấy giờ xây dựng ngôi nhà chung của Giáo hội trong tinh thần hòa hợp, đoàn kết, thống nhất ý chí, hành động và tổ chức. Từ đó,Giáo hội Phật giáo Việt Nam chấp cánh tung bay trong nền trời tự do và phát triển vững mạnh, trang nghiêm trong lòng dân tộc. Quả thật như người xưa đã nói:
“Xin cho tôi làm một hạt cát.
Để góp thành sa mạc của thế gian.
Xin cho tôi chấp cánh đại bàng.
Để tô điểm trần gian thêm tươi đẹp”.
Năm 1984, Hòa thượng lại đảm nhiệm chức vụ Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thay cho cố Hòa thượng Thích Nguyên Sinh đã viên tịch. Ngài đã đảm nhận một trọng trách vô cùng lớn lao trong Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh, lãnh đạo tối cao của Giáo hội về mặt Đạo pháp và Giới luật cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam. Đồng thời, Hòa thượng còn đảm nhiệm vai trò Chánh Trụ trì Tòng lâm Quán Sứ, trụ sở Trung ương Giáo hội, kế thừa sự nghiệp của chư vị “Tiền bối hữu công” như: Tổ Thanh Hanh, Tổ Tuệ Tạng, Tổ Mật Ứng, Tổ Trung Hậu, Đại lão Hòa thượng Thích Tố Liên, Đại lão Hòa thượng Thích Trí Hải, Hòa thượng Thích Trí Độ v.v… Ngài là Tòng lâm thạch trụ, giữ vững môn phong, xứng danh con nhà họ Thích, xứ sở ngàn năm văn vật, lịch sử hào hùng, địa linh nhân kiệt. Quả thật: “Giữ gìn Tổ ấn tông phong, tốt đời đẹp đạo giữa lòng nhân gian”.
Năm 1992, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ III, Hòa thượng được suy tôn vào ngôi vị Phó Pháp chủ, Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Như thế không những Hòa thượng đã củng cố và tăng thêm phần “Đạo phong trác thế” đối với Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam mà Ngài còn có thể hộ trì các Phật sự cao hơn, hữu hiệu hơn trong cương vị là người phụ tá Đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nói thế có nghĩa là: “Thâm tâm khấn nguyện Phật Đà. Cầu cho Đạo pháp chan hòa muôn phương”.
Năm 1997, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV, Hòa thượng được suy tôn lên ngôi vị Pháp chủ. Bằng giới đức trang nghiêm thanh tịnh, Hòa thượng đã tỏa ngát hương lành trong Giáo hội, là bóng đại thụ che mát cho Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước. Cũng từ đó, Hòa thượng đã in sâu sự hiện diện của mình trong tâm khảm người con Phật và trong mỗi tiến trình hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam góp phần thành công rất lớn về mặt Đạo pháp và sinh lực của Giáo hội. Niềm tin của Tăng Ni, Phật tử càng được củng cố, khi hữu duyên bái kiến Hòa thượng, nhất là qua những đạo từ, thông điệp Phật đản, chúc xuân đầu năm và Thông tư, văn kiện về tình hình Giáo hội v.v. là những âm ba bất tuyệt, là nguồn suối diệu hiền tắm mát mọi người để cùng tinh tấn, tiến lên trên lộ trình hoằng dương Chính pháp, lợi lạc quần sinh, tốt đời đẹp đạo. Thế nên: “Dù cho bể cạn non mòn. Bao lời huấn thị sắt son không mờ”.
Sự hiện diện của Hòa thượng đơn giản chỉ có thế thôi, nhưng ý nghĩa vô cùng quan trọng, vô cùng thẩm thấu và chan hòa bất tận. Ngài không đi nhiều, không nói nhiều, không làm nhiều nhưng chu toàn tất cả. Vì sao? Vì như người xưa đã nói: “Bậc hiền nhân trí đức, chỉ cần nhìn qua cửa sổ, nhưng đã quán thông cả thiên hạ. Chỉ cần rảo bước chốn liêu phòng, nhưng dấu ấn, âm ba chan hòa khắp cả mọi nơi”. Tại sao? Vì Hòa thượng đã đi bằng tâm, nói bằng tâm và hành động bằng tâm, nên tâm tâm giao hợp, cảm thông và thấm nhuần ân đức hộ trì của Ngài, từ đó biết bao Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều được thành tựu viên mãn: Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước cảm thấy an lòng, vững dạ tinh tấn tu học, hành đạo và càng củng cố niềm tin Đạo pháp. Quả thật, như Cổ đức nói: “Duyên xưa biết mấy nhiêu đàng. Bây giờ xem lại rõ ràng là đây”.
Sự hiện diện của Hòa thượng trong liêu phòng thanh vắng, tay lần tràng hạt, niệm Phật miên mật, thân tâm thanh tịnh, là một sức sống, niềm tin cho Tăng thân và Pháp thân đại chúng, hàng môn nhơn tử đệ và những ai có duyên bái kiến Hoà thượng nơi phương trượng Tòng lâm Quán Sứ. Điều này có thể hiểu được là đồng nhất với tâm nguyện của Phổ Tịnh Đại sư: “Bao năm ngồi tịnh núi Đại Hùng. Ngẫm nghĩ thân cùng Đạo chẳng cùng. Sáu chữ chuyên trì được thọ ký. Lưu truyền sáng tỏ cả tông phong”.
Chính từ sự hiện diện ấy của Hòa thượng đã đi vào lòng chư Tôn giáo phẩm đang công tác tại 2 Văn phòng Trung ương Giáo hội, cũng như những lúc Hòa thượng Pháp thể khiếm an, chư Tôn đức Ban Thường trực Hội đồng Trị sự vào bái kiến Hòa thượng tại phương trượng Tòng lâm Quán Sứ, Bệnh viện Việt Đức v.v… Hòa thượng khuyên nên niệm Phật nhất tâm, giữ gìn thiện căn công đức để tô bồi Đạo pháp, vững bước trên đường hành đạo và mãi hiện diện trong Chánh pháp, với Pháp thân bất diệt của người Tu. Những lời khuyên đơn giản, trầm tỉnh của Hòa thượng là những chất liệu quý để thẩm thấu, nuôi dưỡng Giới thân Huệ mạng của đại chúng không những đời này mà cho đến vô lượng đời sau cho đến khi giải thoát hoàn toàn. Nhất là tinh tiến hơn nữa trên lộ trình phụng sự Đạo pháp, phục vụ Giáo hội và chúng sinh, như Tổ Quy Sơn đã dạy: “Nguyện bách kiếp thiên sanh đồng vi Pháp lữ”.
Thế rồi, thời gian cứ trôi qua, khi duyên đã mãn, hạnh nguyện đã tròn Hòa thượng đã thuận thế vô thường vào lúc 14h30 ngày 26 tháng Giêng năm Ất Dậu (nhằm ngày 6/3/2005). Tuy đã ra đi về cõi bất sanh bất diệt, nhưng sự hiện diện của Ngài trong thế giới Niết bàn lại là ý nghĩa vĩnh cửu thường hằng. Với pháp thân vô biên, pháp giới vô tận, Hòa thượng sẽ hiện diện muôn nơi, trong tất cả và siêu việt tất cả. Quả thật:
“Dù cho Hòa thượng đi xa.
Quê hương vẫn giữ bao la bóng Ngài.
Pháp thân lồng lộng hiển bày.
Bồ Đề chốn Tổ hương bay ngút ngàn”.
* Hòa thượngThích Thiện Nhơn – Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
– Kỷ yếu Đại hội Phật giáo Toàn quốc kỳ 1 đến kỳ 5 (1981-2012).
– Kỷ yếu Tang lễ Đức Đệ nhị Pháp chủ (2005). NXBTG
– Kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội (THPG TP. Hà Nội, xuất bản 2010).
– Kỷ yếu Hội thảo Kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Văn phòng Trung ương Giáo hội xuất bản năm 2011).
– Văn kiện báo cáo Tổng kết hoạt động Phật sự nhiệm kỳ VIII (2017-2022).
* Ảnh: Võ Văn Tường.