Hương giới bay xa từ bậc Hoàng đế Ðại Việt (TT.TS. Thích Phước Ðạt)

Kinh Pháp Cú dạy rằng: “Hương các loài hoa, bay theo chiều gió. Hương người đức hạnh tỏa khắp muôn phương”. Việc vua Trần Thái Tông lên ngôi vua, khai sáng triều đại nhà Trần vào năm 1225 là đáp ứng nhu cầu cấp thiết của đất nước lúc bấy giờ. Một là thâu giang sơn về một mối, thống nhất từ trong ý chí thể hiện qua hành động. Hai là trên dưới đồng lòng, cùng nhau xây dựng phát triển đất nước thịnh vượng. Ngoài việc thực hiện trọn hai mục tiêu đề ra, vua Trần Thái Tông còn đặt cho mình một nhiệm vụ hết sức trọng đại là trong vai trò lãnh đạo quốc gia, bản thân Ngài còn hướng nhân dân Đại Việt sống an lành trong chánh pháp, thực thi đời sống hướng nội giải thoát, tức là thực hành con đường tu tập Giới – Định – Tuệ. Chính vì lẽ đó, bản thân Ngài đã hành trì giới, thực hành định để khai mở tâm đức như là bậc mô phạm phẩm hạnh cho đời. 

Rõ ràng, Trần Thái Tông đã thực hiện hoài bão của mình kể từ ngày Ông trở về kinh đô nắm giữ triều đình, tuy nhiên Ngài vẫn chuyên tâm nghiên tầm kinh điển Phật và Nho suốt gần 10 năm trời. Ngài đã nỗ lực công phu tu tập, hành trì và cuối cùng cũng chứng ngộ. Vua Trần Thái Tông bừng sáng lý nghĩa kinh Kim Cương, một bản kinh giới thiệu trí tuệ giải thoát có thể giúp hành giả thấy rõ thực tướng của vạn hữu, xuất hiện từ sự dập tắt các ngã tưởng bao gồm: Ngã tưởng, nhân tưởng, chúng sanh tưởng, thọ giả tưởng, pháp tưởng, phi pháp tưởng, tưởng, phi tưởng. 

Chính cái tâm “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà kinh Kim Cang nói đến đã làm khai mở trí tuệ vua Trần Thái Tông như đã từng khai mở trí tuệ ngài Huệ Năng xưa kia. (Ảnh: Vua Trần Thái Tông – tapchinghiencuuphathoc)

Xem ra, từ chỗ trực ngộ này, Trần Thái Tông đã sáng tác bài Thiền tông chỉ nam, có lẽ nhằm trình bày sở đắc của mình trong quá trình nghiên cứu kinh điển Thiền tông, thực tập công phu hành trì. Chúng ta cũng có thể hiểu trí tuệ mà Ngài sở ngộ chính là “kim chỉ nam” của thiền tông, như  ánh sáng rọi soi vào rừng thiền. Sự chứng đắc, sở ngộ của các Thiền sư thực chất là sự chứng đắc, sở ngộ cái không tính của vạn pháp, hay nói cách khác là chứng đắc thực tướng vô tướng của mọi hiện hữu vạn pháp. Suy cho cùng, đó là Vô ngã tính, hay Duyên khởi tính ở ngoài vòng chấp thủ của thế giới “đang là”, được soi rọi từ cái nhìn trí tuệ chân thực.

Rõ ràng, công phu các thiền gia chứng ngộ bao giờ cũng giác tỉnh an trú tâm vào tâm không dính mắc vào bất cứ điều gì hiện hữu trên đời. Chính cái tâm “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà kinh Kim Cang nói đến đã làm khai mở trí tuệ vua Trần Thái Tông như đã từng khai mở trí tuệ ngài Huệ Năng xưa kia. Trong kinh Kim Cang, hành giả Tu Bồ Đề thỉnh cầu Đức Phật lý giải người phát tâm vô thượng Bồ đề, làm thế nào an trụ và làm sao hàng phục cái tâm ấy? Chính Thế Tôn đã chỉ dạy phương pháp an trụ tâm ấy là: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm” [1]. Nghĩa là, hành giả phát tâm vô thượng Bồ đề không nên trụ nơi sắc mà sanh tâm, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm ấy. Tâm vô trụ ấy là tâm vô thượng Bồ đề.

Xem ra, bất cứ hành giả nào khi tiếp cận với sáu trần mà còn bị hệ luỵ bởi tâm tham ái và chấp thủ thì chưa an trụ và hàng phục tâm. Thực tế, một tâm không trụ chỗ nào hết là cái tâm chân thật, tâm thanh tịnh. Khi hành giả tiếp cận các pháp trần thì khởi niệm giác tỉnh vô ngã tưởng ngay giữa lòng đời. Cũng chính tại chỗ ngộ này mà Lục Tổ thốt lên: “Nào ngờ tự tính vốn tự thanh tịnh, vốn không sinh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn không lay động, có thể sanh muôn pháp” [2]. Ý tứ câu này là tâm mình xưa nay vốn thanh tịnh, nhưng do sáu căn bị lôi cuốn theo sáu trần nên chúng ta bị hệ luỵ giữa cơn lốc cuộc đời. Như vậy, để thăng chứng, hành giả cần phải nuôi dưỡng cái tâm vô trụ bằng công phu phát triển Giới, Định và Tuệ. Điểm này thật phù hợp với kinh điển Nikaya mà Đức Phật đã tuyên thuyết qua tinh thần kinh Tứ Niệm Xứ: “Chú tâm, tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, không trú trước vào bất cứ điều gì ở đời”. 

Con đường đó trở thành kim chỉ nam của Ngài để đi vào thế giới công phu Thiền quán. Ngài khuyến cáo mọi người cần phải giữ sáu căn thanh tịnh khi tiếp xúc sáu trần qua phương pháp thực hành sám hối. Sám hối là hình thức phản tỉnh để tịnh hóa tâm thức ra khỏi vùng tâm thức bị rối loạn, vì chúng bị chất chứa các hạt giống tham, sân, si nên không an trú trong định và không phát tuệ được. Cho nên, Trần Thái Tông mới biên soạn khoa nghi sám hối để “tự làm lợi cho mình để làm lợi cho người ta”, mục đích là trở về tự tánh vốn thanh tịnh trong sáng không bị cấu nhiễm bởi các trần. Ngài viết: “Sau đó lại nghĩ rằng: Phàm những nghiệp chướng tích tụ đều do sáu căn tạo thành, cho nên Thích Ca Văn Phật khi chưa thành đạo trước tiên phải vào Tuyết Sơn tu hành khổ hạnh trong sáu năm, cũng vì sáu căn đó. Vậy Trẫm phỏng theo ý ấy, chia sáu căn thành sáu thì, mỗi thì sám hối một căn. Trẫm tự tay viết ra lời sám, gọi là “Lục thì lễ Phật sám hối khoa nghi” [3].

Như thế, công phu Thiền quán theo Trần Thái Tông là phải giác tỉnh sáu căn vốn thường xuyên tiếp xúc sáu trần gây ra các nghiệp tội lỗi. Điều đáng nói, thời đó, sau khi Đại tạng kinh từ Trung Hoa được thỉnh về đã gồm khoa nghi sám hối như Lương Hoàng sám, Từ Bi Thuỷ sám văn, nhưng Trần Thái Tông vẫn trước tác ra khoa nghi sám hối riêng biệt cho mình và người dân Đại Việt như càng khẳng định ý thức tự chủ của dân tộc trên con đường thực nghiệm tâm linh. 

Lại nữa, theo Trần Thái Tông, để công phu Thiền quán dễ tiến sâu vào định, cần phải thực thi hành trì giới luật. Vai trò của giới luật vô cùng to lớn trong việc làm hoá hiện các điều thiện xuất phát từ một tâm thức thanh tịnh, nó cũng có công năng làm huỷ diệt các hạt giống bất thiện có nguy cơ nảy mầm, nhờ giữ giới mà hành giả có thể an định tâm đến bờ giác ngộ. Trong bài Luận về thụ giới, vua Trần Thái Tông viết: “Kinh nói rằng: Giới như mặt đất bằng, mọi điều thiện từ đó sinh ra. Giới như thầy thuốc giỏi chữa được các bệnh. Giới như hạt minh châu, phá vỡ mọi tối tăm. Giới như thuyền bè, vượt qua bể khổ. Giới như chuỗi ngọc làm pháp thân trang nghiêm. Kẻ có tội cần sám hối. Nếu không sám hối, tội càng sâu thêm. Một lần bỏ mất thân mình thì muôn kiếp không thể tìm lại. Ngày nay tuy yên, mai sau khó giữ. Vậy nên giữ phép này, vượt mau qua đường sanh tử; thờ Phật làm thầy, trước hết tuân theo giới luật. Bậc cổ đức có nói: Qua sông nên dùng mảng, đến bến hết cần thuyền. Như vậy, người xưa coi giới là thuyền mảng. Ngày nay, những người không dùng phương tiện đó qua sông mà tới được bờ bên kia là thì thật hiếm vậy” [4].

Trên bước đường tiến sâu vào định giải thoát, tuệ giải thoát, công phu tọa thiền sẽ hỗ trợ làm cho định lực phát sinh, từ đó tuệ sinh khởi. Mỗi bước đi của việc tụng kinh, trì giới, toạ thiền là mỗi bước đi tiến sâu, hướng vào miền đất an lạc, giải thoát. Hướng giải thoát của Trần Thái Tông chủ trương là hướng đi đích thực của truyền thống Giới – Định – Tuệ mà Thế Tôn và các bậc Thánh đã đi qua và về sau Thiếu Thất (Đạt Ma), Tào Khê (Lục Tổ) chứng đạt. Đúng như Trần Thái Tông viết trong Khóa hư lục: “Người học đạo chỉ cốt thấy bản tính, tuy chịu tất cả mọi tịnh giới mà không ngồi thiền thì định lực không sinh và người có trí tuệ được phát sinh từ định lực, nếu như tâm định thì gương tuệ phát sinh” [5]. Cũng chính hướng đi này về sau Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông đã khai mở dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phát triển, đi vào lòng dân tộc. 

Thế nên, sự chuyển hóa tâm thức trong mỗi con người, ai cũng có thể trực nhận và chứng đắc. Tâm Phật và tâm chúng sanh chẳng dị đồng. Chân lý thực tại chẳng ở đâu xa, không thể truy tìm từ bên ngoài mà ngay trong tâm thức của mỗi cá nhân hiện hữu. Cuộc hành trình chứng ngộ tâm linh mà Trần Thái Tông đi qua, suy cho cùng là sự phản tỉnh để hồi đầu, để trực ngộ thấy rõ tâm tính của mình bằng cách chuyên chú hành trì theo Ngài là “biện tâm”. Trong kinh Pháp cú, Phẩm Tâm cũng chỉ rõ biện tâm là uốn nắn cho tâm thẳng, là điều phục tâm, phòng hộ tâm, an trú tâm, khiến tâm trở nên nhu nhuyến trong sáng, thanh tịnh, không cấu nhiễm bởi các ham muốn dục lạc, sự si mê và thù hận. Trong tác phẩm Khóa hư lục, Ngài đã thường xuyên cảnh tỉnh mọi người dù Vương hầu, Bá tước hay thường dân đừng hệ luỵ về danh sắc, âm thanh, đường nét, tiền tài,… Cuộc đời như giấc mộng phù du, cần xem nhẹ như tơ hồng. Trong bài Phổ khuyến Bồ đề tâm, Ngài cũng khuyến cáo mọi người thật chân tình: “Rõ ràng thay, ngày tháng trăm năm chỉ là phút chốc. Cái ảo thân tứ đại há được dài lâu. Càng ngày càng đắm trần lao, mỗi lúc mỗi vương nghiệp thức. Chẳng hiểu biết sự viên minh của một tính, chỉ buông tuồng cái tham dục của sáu căn. Công danh rất mực chỉ là giấc mộng to, phú quý hơn người cũng tránh vô thường hai chữ. Cậy mình cậy nó, rút cuộc thành không; khoe giỏi khoe tài, cuối cùng chẳng thực” [6].

Theo Trần Thái Tông, sự cảnh tỉnh này cần phải được người tu hành thực thi trong tâm thức mỗi phút mỗi giây, ở mọi hoàn cảnh, qua việc thực tập thiền định. Trong Tọa thiền luận, Ông đã bàn về 4 loại thiền: Thiền ngoại đạo, Thiền phàm phu, Thiền Tiểu thừa, Thiền Đại thừa. Tuy nhiên, Ngài khuyến cáo mọi người nên tu pháp thiền Đại thừa mà thôi, vì nó có khả năng thấu đạt cả hai lý nhân không và pháp không. Trần Thái Tông giải thích công năng ngồi thiền là dứt bỏ hết mọi niệm và kiến giải: “Thử tập tọa thiền tức niệm, vật sanh kiến giải”. Điều này cho thấy còn sanh bất cứ kiến giải nào thì đó chỉ là hí luận thôi. Thế nên, vấn đề là thể nhập thực tại qua việc hành trì. Tu định là một loại hành trì chuyển hoá thân tâm. 

Trong bài Tuệ giáo giám luận, Trần Thái Tông viết: “Nói chung tuệ sinh ra từ định lực. Nếu như tâm định thì gương tuệ sinh; nếu tâm loạn thì gương tuệ mất. Cũng như chiếc gương đồng, trước hết phải lau chùi sau mới trong trẻo chiếu sáng. Nhược bằng không lau chùi thì rêu bụi mờ tối. Đã mờ tối ánh sáng sinh ra sao được? Cho nên, biết rằng tuệ xuất hiện từ định; định nảy sinh từ tuệ. Định và tuệ nương tựa nhau, không bỏ sót một bên nào. Nếu giả danh ngồi thiền nhưng tâm chưa định, thế mà gương tuệ vẫn sinh, thì điều đó chưa có bao giờ. Tuy có tuệ tính, nhưng không tập ngồi thiền lại tự bảo: “Mình đã có trí tuệ còn mượn việc ngồi thiền làm gì?”. Những kẻ như thế, dù có trí tuệ đấy nhưng vẫn không có thể chất gương của tuệ. Lại như khi ngồi định mà tâm chưa định, nhưng vẫn muốn tìm tuệ thì cũng ví như sóng gió chưa yên đã muốn tìm bóng trăng. Nếu tâm đã định, lại nảy sinh kiến giải không ngay thẳng, như thế mà muốn tìm tuệ thì cũng như sóng gió đã lặng, bóng trăng trong trẻo, nhưng lại thò tay khoắng nước để vớt bóng trăng, vậy thì làm sao lấy được! Cho nên Tổ sư nói rằng: “Yên lặng mà thường chiếu, thường chiếu mà yên lặng” [7]. 

Nhờ tinh thần này, dù ai có sống trong hoàng cung cảnh đời giàu sang cũng không đắm chìm trong dục lạc, luôn làm tròn bổn phận với dân, đồng thời thành tựu sự nghiệp giải thoát, giác ngộ. Trần Thái Tông là vua, cũng là thiền gia, trải nghiệm kinh qua sự phú quý, công danh, tiền bạc, cung phi mỹ nữ và Ông cũng trải qua nhiều năm tháng thực nghiệm cuộc hành trình hướng nội, chuyển dẫn nội tâm từ sự tán loạn sang định tỉnh, từ chỗ đắm say các dục vọng ngoại cảnh chuyển sang trạng thái bất động sáng suốt, từ chỗ thô tháo, khó sử dụng đến chỗ nhu nhuyến dễ sử dụng, hướng tâm đến đâu là tùy theo tâm nguyện của mình. Tất cả là nhờ sự công phu thiền định, chuyển tâm, phòng hộ tâm, biện tâm mà phát sanh trí tuệ chứng ngộ.

Suy cho cùng, nhờ sự hành trì Giới – Định – Tuệ của Trần Thái Tông mà sự hoằng pháp của Ngài đã hun đúc ra một lớp người lãnh đạo của đất nước kế tiếp là: Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông và một số tướng lãnh quan lại hướng dẫn mọi người dân thực hiện con đường chuyển hoá thân tâm bằng con đường hướng nội, thực hành thiền định ngang qua nếp sống hướng thiện đầy đủ của giới đức, tâm đức, tuệ đức. Thế nên, vua Trần Thái Tông là người xứng đáng được tôn vinh là “Bó đuốc Thiền tông”. Sự nghiệp hoằng dương chánh pháp của Ông mãi mãi được khắc sâu vào tận con tim, khối óc, trong cõi lòng người con Phật Việt Nam đã và đang sống trên khắp hành tinh này.

TT.TS. Thích Phước Ðạt

 

Chú thích:

* Thượng tọa Tiến sĩ Thích Phước Đạt – Ủy viên Hội đồng Trị sự, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

[1] Thích Thanh Từ, kinh Kim Cang Giảng Giải, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1999, tr.18-88

[2] Thích Nữ Trí Hải dịch, kinh Pháp Bảo Đàn, Thành hội Phật giáo TP. HCM, 1998, tr.15.

[3] Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr.157-158.

[4] Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr.81-82.

[5] Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr.87-90

[6] Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần tập II, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1989, tr.61-65 

[7] Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr.89-90.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *