1. Một số khái niệm liên quan
Sự dung thông, theo từ điển Phật học là sự kết hợp nhuần nhuyễn, thông suốt, hoàn toàn không có trở ngại hay mâu thuẫn. Cũng có thể bắt gặp những từ đồng nghĩa với dung thông như dung hợp, tương tức hay tương nhập. Trong cuốn Viên ngộ Phật quả thiền sư ngữ lục quyển 14 (Đại 47, 775 hạ) có viết: “Đức Sơn đánh, Lâm Tế hét đều đưa đến triệt ngộ vô sinh, thấu suốt ngọn nguồn, dung thông tự tại”, ý là dù phương cách dạy dỗ học trò của hai tổ Đức Sơn và Lâm Tế có khác nhau nhưng đều cùng chung mục đích là đưa đến sự giải thoát hoàn toàn, nhận ra cái hiểu biết rốt ráo và đạt được tự tại không vướng mắc.
Nghệ thuật Phật giáo là sự cụ thể hoá các tư tưởng trong giáo lý Phật giáo dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau, điển hình là các lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và mĩ thuật. Nghệ thuật Phật giáo sơ kỳ thuộc loại phi thánh tượng (aniconic), nghĩa là chưa thể hiện hình tượng Phật trong dáng dấp của người. Thời kỳ hưng thịnh của nghệ thuật Phật giáo đầu tiên có lẽ là thời vua Asoka trị vì (khoảng 268-232 TCN), ông đã đóng góp rất nhiều cho việc truyền bá Phật giáo tại Ấn Độ cũng như phổ biến đến các khu vực Trung Á, Tích Lan và ngay cả khu vực Đông Nam Á. Thời kỳ thánh tượng (từ thế kỷ I đến nay), những hình tượng đầu tiên đã xuất hiện, đặc biệt là các tượng tạc hình Đức Phật được tìm thấy có niên đại vào khoảng thế kỷ I SCN ở các vùng Gandhāra (nay thuộc miền Đông Afghanistan) và Mathurā (nay thuộc miền Nam thủ đô Delhi, Ấn Độ).
2. Đặc trưng nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo đồng bằng Bắc bộ
Với mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ mà Phật giáo đặt chân đến đều có sự tiếp nhận thêm những tinh hoa của nhiều nền văn hóa khác nhau, do đó, nghệ thuật Phật giáo trên tinh thần kế thừa và tiếp tục phát triển, trở thành một hệ thống đồ tượng tinh tế và phức tạp.
Ngay tại Ấn Độ, tuy là chiếc nôi của Phật giáo nhưng chỉ hưng thịnh trong nghìn năm đầu, đến khoảng thế kỷ thứ VI-VII, đã có phần suy vong và bị sát nhập với Ấn Độ giáo. Trong khi tại các nước Nam Á, Phật giáo vẫn giữ được những nét truyền thống cổ xưa, thì những quốc gia vùng Bắc Á, bắt đầu từ vòng đai dãy Himalaya lại theo những trường phái đầy huyền bí và sùng bái. Tại các quốc gia vùng Đông Nam Á, nghệ thuật Phật giáo lại nhấn mạnh về những chủ đề mang tính dân tộc, tượng hình liên quan đến lịch sử Đức Phật và giáo pháp của ngài. Tại Việt Nam, nghệ thuật Phật giáo gắn liền với lý thuyết tổng thể, một nguyên lý sáng tạo điển hình phổ biến trong văn hóa, văn nghệ của cư dân nông nghiệp.
Có thể nhận ra tính tổng thể trong nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Việt Nam là sự kết hợp hài hoà giữa cái tĩnh và cái động, nghĩa là dùng cái tĩnh của tâm để đối diện với cái động, cái vô thường của cuộc sống, điển hình là pho tượng Tuyết Sơn ở chùa Bút Tháp (Thuận Thành, Bắc Ninh). Hay còn có thể thấy được tính tổng thể trong nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Việt Nam trong cách khéo léo cân bằng giữa hình và ý (biểu tượng hoa sen Phật giáo với ý nghĩa thanh tịnh, vô nhiễm), giữa cương và nhu (Tượng Hộ Pháp – Khuyến thiện và Trừng ác), giữa yếu tố thoát tục và yếu tố thế tục (Tượng Phật Đà Na Đề tôn giả chùa Tây Phương (Thạch Thất, Hà Nội) trong tạo hình ngồi vui vẻ, tay phải ngoáy lỗ tai).
Giai đoạn đầu khi Phật giáo được truyền vào nước ta (từ đầu Công nguyên đến thế kỷ IV), công trình kiến trúc Phật giáo chỉ là những am miếu thờ Phật, tương đối gần gũi với những điện thờ tổ tiên theo tín ngưỡng nguyên thủy mà người Việt rất mực coi trọng.
Ðến cuối thế kỷ VI cho đến hết thời kỳ Bắc thuộc, những ngôi chùa cũng không để lại dấu vết gì ngoài ghi chép vắn tắt của thư tịch. Dưới những thời kỳ tự chủ của nhà Tiền Lý, nhà Ngô, nhà Ðinh, Tiền Lê (thế kỷ X), tuy Phật giáo hưng thịnh nhưng do thời gian tồn tại của các triều đại không dài nên không dựng chùa xây tháp nhiều.
Các triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần,… nối tiếp nhau và được hưng thịnh một phần nhờ dựa vào giáo lý từ bi, trí tuệ, bình đẳng, giải thoát và tự chủ của Phật giáo. Xã hội biến động dẫn đến những thay đổi nhất định trong bộ mặt kiến trúc dân tộc. Ðối với kiến trúc chùa cũng không nằm ngoài quy luật đó. Theo đó, nghệ thuật trang trí, tạo hình nâng cao, phong cách kiến trúc từng thời kỳ có nhiều biến đổi, mỗi thời kỳ lại mang dáng dấp và thể hiện một cách rõ ràng dấu ấn của xã hội đương thời.
2.1. Đặc trưng nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo thời Lý
Phật giáo Việt Nam thời nhà Lý phát triển rực rỡ, trở thành dòng tư tưởng chính của xã hội bấy giờ đã góp phần hình thành nên một tôn giáo của dân tộc, với những giáo lý, thiền phái riêng, gắn liền với nhân dân và đồng hành cùng dân tộc.
Nói đến kiến trúc Phật giáo thời Lý, bên cạnh tính quy mô của những công trình, còn cần nhắc đến kết cấu chắc chắn, cân đối, mà ở đó nổi bật lên là dạng kết cấu mặt bằng hình vuông hướng vào trung tâm là nơi thờ Phật như chùa Một Cột (Ba Đình, Hà Nội), hoặc kết cấu tầng tầng lớp lớp mở rộng không gian từ ngoài vào trong như kiến trúc chùa Phật Tích (Tiên Du, Bắc Ninh), chùa Dạm (Nam Sơn, Bắc Ninh). Bình đồ kiến trúc theo lối chữ “công” manh nha xuất hiện từ thời kỳ này, nhằm tăng diện tích chùa và để hành lễ trong những ngày mưa gió.
Ngoài ra, nói đến chùa thời Lý thường đi liền với cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, gắn với núi, với sông, với những cánh đồng mênh mông tạo thành những phong cảnh hữu tình, hòa hợp giữa con người và trời đất. Trang hoàng cho các công trình đó là những tác phẩm hội họa, điêu khắc, với hình ảnh rồng, phượng, mây, sóng, hoa sen, hoa cúc, nhạc công, tiên nữ… làm cho công trình trở nên bay bổng, tạo ra chốn tiên cảnh ở trần gian vừa như thực lại vừa như mơ. Ngày nay, qua dấu tích còn lại với những nền móng, chân tảng, những viên ngói bò chạm rồng, chạm phượng,…cùng các thư tịch người xưa để lại, chúng ta có thể hình dung ra kiến trúc Phật giáo thời Lý, một loại công trình nổi bật trong lịch sử kiến trúc Việt Nam. Đó chính là những di sản văn hóa vật thể, thể hiện tâm hồn hiền hậu, lối sống hiền hòa vốn có của người Việt, đồng thời là khát vọng của một vương triều đã hòa chung với khát vọng của nhân dân để cùng cầu mong xây dựng một đất nước phồn vinh.
2.2. Đặc trưng nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Bắc bộ thời Trần
Trải qua gần 200 năm tồn tại, thời Trần đã đóng góp cho kiến trúc chùa tháp Việt Nam nhiều công trình có giá trị còn tương đối nguyên vẹn cho đến ngày nay như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn… Thừa hưởng một nền kiến trúc đồ sộ thời Lý, nền kiến trúc thời Trần giai đoạn đầu mang những ảnh hưởng đặc trưng của kiến trúc thời Lý. Công trình luôn gắn bó với môi trường, cảnh quan đẹp đẽ, vị trí thuận tiện, những bố cục trang trí tinh xảo và cân xứng. Tuy không còn những công trình đồ sộ như thời Lý nhưng những kiến trúc Phật giáo với tầm vóc vừa phải của thời Trần cũng để lại một dấu ấn đáng tự hào trong lịch sử phát triển Phật giáo ở nước ta.
Kế thừa di sản nghệ thuật từ thời Lý, điêu khắc thời Trần đã phát triển theo một con đường riêng, tạo ra một thời đại phát triển rực rỡ nữa của Phật giáo. Khác với sự tinh vi, trau chuốt trong nghệ thuật thời Lý, phong cách nghệ thuật giai đoạn này giản đơn, khỏe khoắn, như muốn thoát khỏi lễ nghi thể hiện trong từng đường nét chạm trổ và kiến trúc. Tuy nhiên, do chiến tranh của phương Bắc và phương Nam đã hạn chế sự phát triển của kiến trúc thời Trần và mang lại ảnh hưởng ít nhiều của nền kiến trúc ngoại lai trong các lối bố cục và hoa văn trang trí. Nhưng trên hết, những nét truyền thống dân tộc về cơ bản vẫn được bảo lưu nguyên vẹn trong nền kiến trúc thời Trần, đóng góp không nhỏ vào kho tàng kiến trúc của dân tộc.
2.3. Đặc trưng nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Bắc bộ thời Lê Sơ
Trong vòng hai mươi năm đầu, mỹ thuật thời Lê Sơ với phong cách phóng khoáng, ngôn ngữ tạo hình trong sáng, là tiền đề nối nguồn mỹ cảm dân gian thời Trần đến những thế kỷ sau. Một điều đáng tiếc trong thời kỳ này, tuy là thời kỳ mở đầu cho nghệ thuật dân gian phát triển lại không có đóng góp của kiến trúc Phật giáo do sự bảo thủ của hệ tư tưởng phong kiến. Về sau, dưới ảnh hưởng của nghệ thuật phương Bắc, tính dân tộc trong kiến trúc bị mờ nhạt, nghệ thuật cung đình phát triển với những cách biệt và ưu thế rõ rệt. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này không kéo dài lâu, về cơ bản, ý thức dân tộc vẫn chi phối tư tưởng xã hội. Tinh thần yêu nước, ý chí độc lập đã là nguồn sức mạnh nuôi dưỡng nền văn hóa mang tính dân tộc, thoát khỏi những tác động khi Nho giáo được triều đình coi trọng hơn các tôn giáo còn lại.
2.4. Đặc trưng nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Bắc bộ thời Mạc
Thời nhà Mạc, dù chỉ là một giai đoạn ngắn trong lịch sử nhưng đã có những tác động đến phương diện kiến trúc nói chung và kiến trúc Phật giáo nói riêng. Phật giáo thời Mạc là sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tượng thờ và nhu cầu hành lễ đã khiến kiểu chùa chữ “công” thời kỳ này trở nên phổ biến. Theo văn bia chùa Phúc Lâm (Hà Tây), đến cuối thế kỷ XVI, kiểu chùa “nội công ngoại quốc” đã bắt đầu xuất hiện.
Nguyên tắc xây dựng chùa, tháp từ thời Mạc về sau luôn theo quy tắc khép kín, biệt lập với thế giới bên ngoài, tạo ra một không gian tôn giáo thiêng liêng. Tuy nhiên, ở trong không gian khép kín ấy, mối tương quan hài hoà chính là sự hoà nhập đường nét kiến trúc với các yếu tố thiên nhiên.
Điêu khắc thời Mạc vô cùng đa dạng, xen lẫn những hoa văn cao quý là những họa tiết giản đơn, xen lẫn sự trang nghiêm là nét phóng túng… Nền nghệ thuật dân gian được dịp trỗi dậy mạnh mẽ, các chùa làng được xây dựng và tu bổ nhiều góp phần tạo nên một nền mỹ thuật có giá trị thẩm mỹ cao.
Ngoài những nét kế thừa của nền mỹ thuật và kiến trúc thời Lý – Trần, thời Mạc còn tạo nên một sự đổi khác trong mỹ thuật, đánh dấu bước chuyển tiếp từ nghệ thuật chính thống sang nền mỹ thuật dân dã. Khác với thời Lê Sơ, nghệ thuật hướng ngoại và bế tắc, thời kỳ này đã đưa nghệ thuật dân tộc trở về với vị thế của mình. Điều này, một lần nữa minh chứng cho truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc, cho dù bị tàn phá, bị lai căng, bị thể chế chi phối nhưng vẫn luôn mang sắc thái riêng mình.
2.5. Đặc trưng nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Bắc bộ thời Nguyễn
Dưới thời nhà Nguyễn, một khối lượng di sản văn hóa Phật giáo đồ sộ được để lại. Hàng ngàn ngôi chùa làng từ Bắc chí Nam được trùng tu, đúc chuông, tô tượng và hàng loạt bộ kinh Phật được in khắc… Nổi bật là kiến trúc chùa Tây Phương (Thạch Thất, Hà Nội), lộng lẫy trang hoàng, tạo nên một thể kiến trúc thống nhất mang vẻ trang nghiêm mà gần gũi, nhưng vẫn mang rõ nét riêng độc đáo của văn hóa cung đình.
Phật giáo Việt Nam giai đoạn này đã có nhiều đóng góp to lớn, không những cho sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc nước nhà mà còn một nền mỹ thuật khá độc đáo và riêng biệt. Nổi bật là kiến trúc xây dựng với nhiều nghệ thuật chạm khắc cực kỳ khéo léo, tinh xảo bằng sành sứ thành rồng, lân, phượng, hổ và hoa cỏ. Những quả chuông rất lớn được đúc bằng đồng, nhiều chuông có quai hình một con rồng hoàn chỉnh vui mắt, khắc chữ sắc gọn cũng là một trong những thành tựu mỹ thuật của thời này. Có thể kể đến như chuông chùa Linh Tiên đúc năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), hay chuông chùa Phổ Quang đúc năm 1831, chuông chùa Viên Quan đúc năm 1838…
Nhìn chung, nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn hài hòa với thiên nhiên, luôn kết hợp với nghệ thuật trang trí và hợp thành một kết cấu tổng thể chặt chẽ.
3. Sự dung thông trong nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo với văn hoá tín ngưỡng dân gian qua kiến trúc một số ngôi chùa Bắc bộ
Xuyên suốt chiều dài lịch sử phát triển, Phật giáo từ tôn giáo ngoại lai đã trở thành tôn giáo tâm linh bản địa của người Việt. Sau khi người Việt tiếp nhận, Phật giáo trở thành điểm tựa vững trãi về tinh thần cho người Việt. Người Việt cũng đã trở thành những chủ thể sáng tạo ra biết bao công trình Phật giáo, mang đậm tính dân tộc và ý nghĩa Phật giáo như hệ thống chùa, tháp, tượng Phật… Bản chất sáng tạo cái đẹp, cái đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Việt Nam nếu nhìn rộng ra sẽ thấy thống nhất với các đặc tính quy định chung của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Người Việt có thiên hướng về tư duy tổng hợp hơn phân tích; thiên về những mô hình xã hội hài hoà, ổn định; nghiêng mạnh về tính cộng đồng bao trùm lên các liên kết cá nhân. Sở dĩ tính tổng thể là đặc điểm cốt yếu của nền văn hóa Việt Nam nói chung và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Việt Nam nói riêng, là do: “Tổng hợp là một trong những đặc tính của lối tư duy nông nghiệp, chính vì thế tổng hợp là đặc tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam”. Điều này lý giải đặc trưng dung hòa, dung hợp cao trong tư duy người Việt, điển hình là sự dung hòa giữa tín ngưỡng bản địa và sự du nhập tôn giáo ngoại lai.
Ngay từ đầu Công nguyên, việc xây dựng chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) và đặc biệt sau này là các ngôi chùa xây dựng thời Lý – Trần như chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chùa Một Cột (Hà Nội), chùa Thái Lạc (Hưng Yên),… đã cho thấy một lối đi riêng trong phong cách kiến trúc, mỹ thuật và điêu khắc Phật giáo Việt Nam. Trong không gian chùa Dâu, nhìn vào nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc có thể xác định rằng tính độc đáo của nó không chỉ thể hiện ở kết cấu, các cấu kiện và nghệ thuật chạm khắc trong chùa mà nó còn khẳng định rõ một lối nghệ thuật Phật giáo dân gian, qua nghệ thuật tạo tác tượng. Hiện tượng hỗn dung triết lý, tư tưởng Phật giáo và văn hóa bản địa trong tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là một trong những nét độc đáo của nghệ thuật vật thể truyền thống Phật giáo Việt Nam.
Nếu như nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và mỹ thuật chùa Dâu và vùng phụ cận thời kỳ đầu Phật giáo du nhập mang đậm dấu ấn dân gian thì đến thời kỳ Lý – Trần, loại hình nghệ thuật này lại in đậm dấu ấn của nghệ thuật cung đình, bác học. Chân bệ đá chùa Phật Tích và pho tượng Phật A Di Đà ở đây được coi là một đỉnh cao trong tạo tác nghệ thuật kiến trúc. Các nhạc cụ được ghi trên bệ đá cho thấy trình độ kỹ thuật về mỹ thuật điêu khắc, đồng thời cho thấy yếu tố cung đình ở tổ chức dàn nhạc thời Lý; sự cân xứng, tinh tế đến đặc biệt trong pho tượng Phật A Di Đà chùa Phật Tích cùng với nhiều tượng các con vật chầu Phật ở khu vực chùa này đã vượt xa tính chất dân gian. Những điều đó phần nào nói lên những câu chuyện về vai trò, vị trí và mối quan hệ tư tưởng Phật giáo với nền nghệ thuật Phật giáo nước nhà cũng như khẳng định nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và mĩ thuật thời kỳ này là bước tiến triển của nó ảnh hưởng như thế nào tới văn hóa Việt Nam.
Tương tự, tại chùa Thái Lạc, trong đó các bức chạm khắc trên chất liệu gỗ, phong cách chạm trổ trên vì, kèo thời Trần còn nguyên cho đến hôm nay cũng là nguồn tư liệu quý để đánh giá tầm quan trọng của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và mỹ thuật thời kỳ này, bên cạnh chùa Một Cột ở Hà Nội và hàng trăm ngôi chùa cổ khác rải rác khắp vùng châu thổ Bắc Bộ. Nó là minh chứng sống động cho giá trị nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và mỹ thuật Phật giáo Việt Nam với những đóng góp cho văn hóa nước nhà. Có thể khẳng định, với đặc điểm lịch sử du nhập và phát triển, kiến trúc, điêu khắc và mỹ thuật Phật giáo có ảnh hưởng trực tiếp từ kiến trúc điêu khắc xây dựng đình làng và các công trình kiến trúc truyền thống Việt Nam thời kỳ trung đại. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này là một sự dung hòa rất uyển chuyển, hoàn toàn không có tính đấu tranh hay mâu thuẫn.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa Một Cột được xây dựng vào đời vua Lý Thái Tông, sau khi vua nằm mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên toà sen và dắt vua lên toà. Khi tỉnh giấc, vua được sư Thiền Tuệ cho lời khuyên kiến thiết chùa, dựng cột đá ở giữa ao, làm toà sen của Phật Quan Âm đặt lên trên cột như đã thấy trong giấc mộng. Chùa là một công trình kiến trúc sáng tạo kết hợp không gian kiến trúc có nhịp điệu cao, thấp gồm điêu khắc đá, hội hoạ, chạm vẽ hành lang, mặt nước là biểu tượng văn hoá, nghệ thuật cao, mang đậm tính dân tộc. Tuy nhiên, chùa đã bị huỷ hoại và được xây dựng lại nhỏ hơn so với nguyên mẫu.
Nghệ thuật điêu khắc chùa Một Cột là sự kết hợp tinh tế của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng hoa sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ bằng hệ thống móng giằng, đặc biệt là sử dụng các cột chống chéo lớn từ cột đến sàn, vừa tạo thế vững chắc, vừa mang lại hiệu quả thẩm mỹ như đường lượn của cánh sen, thiết lập sự hài hoà giữa mái và sàn bởi một trục đối xứng ảo. Cùng với bình đồ ao hình vuông phía dưới có thể là biểu tượng cho đất – lối tư duy nông nghiệp của người Việt, trời tròn đất vuông, ngôi chùa vươn lên cái ý niệm cao cả: Hoa sen – đại diện cho lòng nhân ái có thể soi tỏ cả thế gian.
Hay như chùa Nôm (Văn Lâm, Hưng Yên) xưa thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc với những đặc sắc của văn hoá Việt cổ bên cạnh nền văn minh lúa nước. Trải qua nhiều trận lũ lụt những năm 1945, năm 1971, năm 1986, toàn bộ hệ thống tượng bằng đất bị nhấn chìm trong biển nước. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn lưu giữ được hơn 100 pho tượng còn nguyên vẹn, điển hình như bức tượng Thần Nông, bộ tượng Tam Thanh, bộ tượng tam thế Phật, tượng Phật A Di Đà, tượng Đức ông, Đức Thánh hiền, Bát bộ Kim cương, Thập điện Diêm Vương,… với khuôn mặt và biểu cảm giống với trạng thái cảm xúc của con người. Từ trang phục đến trạng thái của các pho tượng cổ đều mang nét đẹp dân dã, thuần Việt, rất gần gũi với đời sống của cư dân nông nghiệp.
Nhìn chung, với tinh thần từ bi, bình đẳng của Phật giáo nói chung, sự uyển chuyển trong phương cách tiếp nhận những tinh hoa văn hoá dân tộc Việt nói riêng, nghệ thuật Phật giáo Việt Nam trong kiến trúc, điêu khắc đã có sự dung thông, hoà hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa một cách linh hoạt và có hiệu quả mà không làm mất đi những đặc trưng trong tư tưởng giáo lý của Phật giáo.
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội.
- Trần Lan Chi, “Kiến trúc Phật giáo qua các thời kỳ”, Tập san Pháp Luân, số 10, số 12, số 15.
- Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.
- Nguyễn Đức Nùng (1997), Mỹ thuật thời Trần, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
- Chu Quang Trứ (1998), Mỹ thuật Lý – Trần, Mỹ thuật Phật giáo, Nxb. Thuận Hoá.
- Nguyễn Bá Lăng (1972), Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, Viện Đại học Vạn Hạnh.
- Cao Ngọc Lân, Cao Vũ Minh (2011), Văn hoá Phật giáo trong lòng người Việt, Nxb. Lao động, Hà Nội.