Những đại hồng chung thời nhà Nguyễn ở TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam (TS. Lê Xuân Thông, ThS Ðinh Thị Toan)

Trong hệ thống di vật của Phật tự, đại hồng chung là cứ liệu quan trọng trong nghiên cứu các vấn đề liên quan đến Phật giáo ở một ngôi chùa, một con người cụ thể hoặc góp phần đánh giá tình hình tôn giáo ở một địa phương nhất định. Tuy nhiên, trải qua thời gian, số lượng di vật này không còn lại nhiều. Ở Hội An hiện nay, bước đầu xác định đại hồng chung ở các Phật tự có niên đại thời nhàNguyễn. Di vật có niên đại trước đó chưa được tìm thấy. Bài viết này giới thiệu các đại hồng chung trên.

CHUÔNG CHÙA VIÊN GIÁC

Chùa Viên Giác ban đầu được xây dựng tại thôn Xuyên Trung, xã Cẩm Phô (nay thuộc phường Cẩm Nam, TP Hội An). Đến năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), “Nghĩ chùa ở xứ này sau các đợt binh hỏa cỏ mọc um tùm, chùa lại ở giữa sông, thường bị thủy tai, thế khó mà vững”, cho nên “bổn xã kiền tâm khởi việc tạo lập, nguyện trùng hưng chùa, chặt bỏ cột kèo ở cổ tự giữa sông đưa về…” [1] trùng tạo lại ngôi chùa khang trang tại vị trí mới là ấp Tu Lễ. Chùa dựng xong, lấy tên là Viên Giác. Khác với nhiều đại hồng chung trên địa bàn, chuông chùa Viên Giác được khắc vỏn vẹn hai dòng nằm sát nhau trong cùng một phần tư thân chuông:

嘉 隆 十 三 年 歲 次 甲 戌 孟 夏 月 吉 日 敬 立
靈 廟 族 東 派 仝 造 铸 奉 供
錦 里 寺

(Gia Long thập tam niên tuế thứ Giáp Tuất mạnh hạ nguyệt cát nhật kính lập.
Linh Miếu tộc đông phái đồng tạo chú phụng cúng.
Cẩm Lý tự).

Văn khắc khá rõ nét, cỡ chữ lớn, kiểu chữ chân phương. Dựa vào những dòng chữ này, nhiều người cho rằng nguyên ủy chùa có tên là Cẩm Lý. Chúng tôi băn khoăn chưa thể tán đồng, vì biết đâu quả này thuộc một chùa Cẩm Lý nào đó hoàn toàn khác bởi vì theo văn bia thì trước đó chùa chưa có tên, nay mới đặt là Viên Giác.

Về mặt hình dáng và trang trí: Thân chuông có dáng gần như thẳng đứng, do mức độ chênh lệch giữa các vòng đo 1 (giáp vai), 2 (chính giữa thân) và 3 (sát với phần miệng) không lớn. Thân chuông cao 80cm, quai cao 20cm, đường kính miệng 50cm. Trên thân có bốn tổ hợp băng gờ dọc nằm cách đều nhau chạy từ trên xuống và hai tổ hợp băng gờ ngang chạy vòng quanh (một đường ở vai, một đường chạy gần sát miệng). Tại các vị trí giao nhau của băng gờ dọc và ngang là bốn núm đánh. Quai chuông hình hai con rồng đấu lưng vào nhau, dáng rồng gầy và nhỏ. Đại hồng chung hiện được đặt ở bên trong chánh điện.

CHUÔNG CHÙA PHƯỚC LÂM

Chùa Phước Lâm tọa lạc ở phường Cẩm Hà, do ngài Thiệt Dinh – Chánh Hiển – Ân Triêm (1712 – 1796) sáng lập, khoảng năm 1736. Ông là cao đệ ngài Minh Hải – Pháp Bảo, Tổ sư dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh. Chùa này về sau, có thể nói chỉ xếp sau tổ đình khai mở pháp phái tức chùa Chúc Thánh. Hệ thống di vật ở đây khá nhiều, đa phần còn bảo lưu nguyên vẹn và được giữ gìn ở các công trình khác nhau như chánh điện, nhà tổ, nhà khách, nhà ăn, nhà linh… Đại hồng chung cổ hiện được đặt ở nhà tổ, rất ít khi dùng đến. Các pháp sự sử dụng đại hồng chung mới đúc về sau.

So với chuông chùa Viên Giác, chuông chùa Phước Lâm có kích thước lớn hơn. Chuông cao 100cm, quai cao 30cm, đường kính miệng 70cm. Trang trí trên thân cũng có điều khác biệt. Có 3 tổ hợp băng ngang (nằm ở vai, giữa thân và gần miệng chuông) và 4 tổ hợp băng gờ dọc chia thân chuông thành 8 ô hình chữ nhật đứng. Bốn ô trên chính giữa mỗi ô có một chữ đại triện, ngoài ra khắc tên chùa, thời gian đúc chuông và người chứng minh là Hòa thượng Minh Giác. Bốn ô dưới ghi lời kệ Kệ vân/ Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới/ Thiết vi u ám tất giai văn/ Văn trần thanh tịnh chứng viên thông/ Nhất thiết chúng sinh thành chính giác. Kệ vân/ Văn chung thanh phiền não khinh/ Trí huệ trường bồ đề sinh/ Ly địa ngục xuất hỏa khanh/ Nguyện thành Phật độ chúng sinh và chú nguyện Hoàng đồ vĩnh cố, đế đạo hà xương, Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển.

Mỗi góc ô dưới có họa tiết trang trí hình cánh bướm. Sát miệng chuông có đường viền khoảng 5cm khắc nổi hình hoa chanh. Bốn núm đánh nằm ở băng gờ gần sát miệng và cách đều nhau. Chuông được đúc vào ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1822).

CHUÔNG CHÙA CHÚC THÁNH

Chúc Thánh là tổ đình Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, do Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo khai sơn. Điều này được văn bia lưu tại chùa do Thiền sư Thiện Quả tạo lập năm Ất Mão niên hiệu Duy Tân (1915), khẳng định: Chùa Chúc Thánh được chư sơn xưng là tổ đình ở Nam châu. Nhớ xưa Minh Hải Hòa thượng Tổ sư người huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến vào năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Thái triều Minh chấn tích đến phương nam, dựng nên ngũ tôn thất phái ở bổn tự, lưu tiếng thơm ngàn năm, trải bao năm tháng tương truyền mà kế thế các đời. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng phải cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII chùa Chúc Thánh mới được xây dựng. Cũng như Tổ đình Phước Lâm, số lượng hoành phi, liễn đối, tượng thờ ở đây còn lại khá nhiều. Riêng đại hồng chung được lưu giữ tại nhà Tổ vẫn còn nguyên vẹn.

Chuông chùa Chúc Thánh có 3 tổ hợp băng ngang (nằm ở vai, giữa thân và gần miệng chuông) và 4 tổ hợp băng gờ dọc chia thân chuông thành 8 ô

Chuông này cũng có 3 tổ hợp băng ngang (nằm ở vai, giữa thân và gần miệng chuông) và 4 tổ hợp băng gờ dọc chia thân chuông thành 8 ô giống như chuông chùa Phước Lâm, tuy nhiên khoảng cách giữa các băng gờ ngang gần nhau khiến các ô giống hình vuông hơn là hình chữ nhật. Băng gờ ngang trên vai nằm thấp xuống, phía trên trang trí hình lá đề bao quanh. Trong mỗi ô vuông ở phần trên (tức 4 ô trên) khắc nổi 4 đại triện, mỗi góc ô có họa tiết hình cánh bướm. Bốn ô dưới mỗi ô khắc thêm 2 chữ Hán trong cụm từ “Tạo tự chú chung, nhị thung công đức” ở gần hai góc dưới mỗi ô, các góc vẫn tạo nổi hình cánh bướm như 4 ô trên. Sát gần miệng chuông trang trí họa tiết dây lá bao quanh. Điểm giao nhau giữa các băng gờ dọc và băng gờ ngang gần miệng chuông là 4 núm đánh. Chuông cao 90cm, quai cao 30cm, đường kính miệng 58cm.

Văn khắc chuông ghi nhận thời điểm đúc là vào tháng giêng năm Giáp Ngọ (1894) thời vua Thành Thái. Ngoài dòng lạc khoản ghi tên chùa, thời gian đúc, người chứng minh là Hòa thượng Chí Thành ở chùa ngự chế Tam Thai (nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng) và hai bài kệ như ở chuông chùa Phước Lâm, chuông còn khắc tên hai vị Thiền sư Quảng Đạt và Bát Nhã. Đặc biệt, văn khắc ghi rõ 8 đại tự:

造 寺 铸 鍾 二 椿 功 德

(Tạo tự chú chung nhị thung công đức – Dựng chùa, đúc chuông, hai phen công đức).

Đây là lời trích trong câu đối xưng tán của một vị Thiền Tăng dành cho Ngài Minh Giác, nối pháp đời thứ 36 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 3 pháp phái Chúc Thánh khi ông thị tịch: Bình Man tảo thị, lưỡng độ gian lao, xuất gia kỳ, phát nguyện vưu kỳ, bát dật sinh thiên thành chánh giác/ Tạo tự chú chung, nhị thung công đức, cách cựu hảo, đảnh tân cố hảo, thiên thu giác thế vĩnh truyền đăng (Dẹp giặc, quét chợ, mấy độ gian lao, xuất gia lạ, phát nguyện càng thêm lạ, tám mươi vãng sanh thành chánh giác/ Dựng chùa đúc chuông, bao phen công đức, sửa cũ đẹp, làm mới lại càng đẹp, nghìn năm sáng mãi ngọn đèn thiền) [2]. Như vậy, có thể những lời tán tụng này là để tưởng niệm vị cố trụ trì hoặc đã sử dụng phổ biến để ngợi ca người có công lao đối với tự sở mà trường hợp này là ngài Vĩnh Gia.

CHUÔNG CHÙA VẠN ĐỨC

Chùa Vạn Đức thuộc phường Cẩm Hà, do ngài Minh Lượng Thành Đẳng, đệ tử của Thiền sư Nguyên Thiều [3], nối pháp đời thứ 34 tông Lâm Tế khai sơn. Lâu nay, nhiều người đoán định niên đại khai sơn của ngôi cổ tự này là khoảng cuối thế kỉ XVII. Tuy nhiên theo chúng tôi, sớm nhất cũng phải những thập niên đầu thế kỉ XVIII chùa mới được xây dựng.

Chuông chùa Vạn Đức có thể xem là sự hòa trộn giữa chuông chùa Chúc Thánh với Phước Lâm

Khác với các đại hồng chung được kể ở trên, chuông chùa Vạn Đức đặt tại lầu chuông gần lối đi phía tả chùa. Thân chuông cao 91cm, quai cao 26cm, đường kính miệng 58cm. Xét về hình dáng và trang trí hoa văn, chuông này có thể xem là sự hòa trộn giữa chuông chùa Chúc Thánh với Phước Lâm. Các băng gờ chạy cắt thân chuông thành 8 ô hình chữ nhật đứng, mỗi góc ô dưới tạo hình cánh bướm (giống chùa Phước Lâm), đại tự kiểu chữ triện đắp nổi ở bốn ô trên, (giống với chuông Phước Lâm và Chúc Thánh), họa tiết lá đề chạy bao quanh ở vai chuông (giống chùa Chúc Thánh). Điểm khác biệt hai chuông chùa trên là:

1/ Không có họa tiết dây hoa lá ở gần băng gờ ngang sát miệng;

2/ Ngoài 4 núm đánh ở phần giao cắt giữa băng gờ ngang và dọc gần miệng thì có 4 núm phụ nằm chính giữa các băng gờ dọc phần trên của thân chuông.

Văn khắc cho biết người chứng minh là Hòa thượng Minh Giác và người trụ trì lúc bấy giờ là ngài Hoành Tông đại sư [4]. Thời gian chú tạo chuông là ngày tốt tháng 7 năm Mậu Dần. Dựa vào khoảng thời gian trụ trì của Thiền sư Minh Giác (1802 – 1830) và Đại sư Hoành/ Hoằng Tông (? – 1843), có thể khẳng định năm Mậu Dần ở đây phải là 1818.

CHUÔNG CHÙA HẢI TẠNG

Hải Tạng là ngôi chùa tọa lạc trên đảo Cù lao Chàm, thuộc phường Tân Hiệp. Chùa được dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 19 (1758). Đại hồng chung ghi năm chú tạo là ngày mồng 7 tháng 6 năm Canh Dần, bổn đạo thập phương, thiện nam tín nữ già, trẻ cùng phụng cúng, Hòa thượng Minh Giác chứng minh. Chuông cao 90cm, quai cao 22cm, đường kính miệng 57cm.

Về niên đại chuông, rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng năm Canh Dần là 1770 đi kèm một câu chuyện kể về tấm lòng hướng đạo của một bà lão như sau: Tương truyền rằng, hưởng ứng lời kêu gọi của Hòa thượng Minh Giác nhằm gây quỹ để đúc chuông, mọi người dân trên đảo ai cũng muốn góp công góp của tích đức. Có một bà lão nghèo khó, tuy trong tay chỉ có một đồng xu nhưng cũng xin góp. Tuy thương cảm, ghi nhận tấm lòng sùng kính hướng về Đức Phật của bà nhưng Hòa thượng không nhận mà gửi lại đồng xu để bà trang trải cuộc sống khó khăn. Kỳ lạ thay, khi chuông đúc xong, đến phần gắn quai có hình hai đầu con bồ lao (dân gian gọi nhầm là rồng) trên đầu chuông để treo thì những người thợ đúc cố sức đến mấy vẫn không sao gắn kết dính được. Hòa thượng đi ra đi vào ngẫm ngợi mãi. Chợt nghiệm ra nguyên do, Hòa thượng cho mời bà lão đến để chùa nhận đồng xu cúng dường của bà. Quả nhiên sau đó quai được gắn chặt vào đầu chuông. Lúc này, Hòa thượng và mọi người mới suy ngẫm ra rằng tâm hướng Phật không cốt phải giàu hay nghèo chỉ cốt ở tấm lòng. Chiếc chuông chùa mang bao tấm lòng, ước nguyện của cư dân trên đảo gửi gắm. Vì thế, khi được khởi lên, tiếng chuông ngân vang xa tít đến tận đất liền mang theo tiếng nói, tiếng lòng của cư dân trên đảo [5].

Tuy nhiên dựa vào kiểu thức trang trí có thể đoán định đây là năm 1830. Hòa thượng Minh Giác được nhắc đến là Pháp Kiêm – Luật Oai – Minh Giác, trụ trì chùa Phước Lâm từ năm 1802 đến 1830. Thích Như Tịnh trong cuốn Lịch sử truyền thừa thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh cũng khẳng định ngài Minh Giác đã chứng minh lễ đúc đại hồng chung tại chùa Vạn Đức và chùa Hải Tạng [6].

CHUÔNG CHÙA LONG TUYỀN

Chùa Long Tuyền do ngài Ấn Nghiêm – Tổ Thân – Phổ Thoại khai sơn vào năm Kỷ Dậu (1909) trên một mảnh đất do Phật tử hiến cúng tại ấp Hậu Xá, xã Thanh Hà, nay là phường Thanh Hà. Cũng trong năm này một đại hồng chung được tạo đúc. Chuông này có điểm đặc biệt, văn khắc nhiều chữ nhất và đúc vào năm dựng chùa; đây cũng là chuông duy nhất nói rõ cân nặng 200kg.

Hình dáng và hoa văn gần giống chuông chùa Vạn Đức. Văn khắc ghi lại phương danh những tập thể, cá nhân phụng cúng tiền bạc cho chùa trong và ngoài tỉnh. Việc đúc pháp khí này do sắc tứ Tăng cang ở hai chùa ngự chế Tam Thai, Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng là ngài Từ Trí A Xà Lê sư chứng minh. Thân chuông cao 70cm, quai cao 20cm, đường kính miệng 55cm, hiện được đặt ở lầu chuông gần chánh điện, ít khi sử dụng do chùa còn có thêm 2 đại hồng chung khác. Một trong hai chuông còn lại được đúc năm Canh Ngọ niên hiệu Bảo Đại thứ 5 (1930).

Trong số các đại hồng chung, chuông này có họa tiết trang trí đơn giản nhất, hay có thể nói không có hoa văn. Các băng gờ ở đây chỉ có 3 đường thay vì 5 đường như các chuông khác. Núm đánh nằm ở điểm giao cắt các băng gờ gần miệng chuông. Phần giao cắt ở giữa thân đắp nổi đại tự kiểu chữ triện. Ngoài dòng lạc khoản ghi thời gian, chuông khắc thêm dòng chữ sơn tự tỉnh Quảng Nam đồng chú tạo. Rồng trên quai chuông khá mảnh mai, miệng ngậm ngọc há to, hai chi trước và thân trước tì xuống thân chuông.

CHUÔNG CHÙA KIM BỬU

Chùa Kim Bửu thuộc xã Cẩm Kim, nằm tách biệt với khu phố cổ Hội An qua một con sông nhỏ. Đây vốn là một ngôi chùa làng được nhân dân đóng góp tiền của dựng nên, cùng với nhà thờ tiền hiền, các ngôi miếu thờ thần linh trở thành một hệ thống thiết chế tín ngưỡng văn hóa, tâm linh của người dân sở tại. Mặc dù chưa có cơ sở xác tín thời điểm dựng chùa, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng sự hình thành Phật tự này gắn liền với sự hình thành, phát triển làng Kim Bồng xưa, và có thể khoảng đầu thế kỉ XVII chùa đã được dựng nên.

Do nằm ở vị trí riêng biệt bao quanh bởi sông nước, trải qua nhiều thiên tai, nhân họa, chùa nhiều lần bị hư sụp. Các di vật theo đó cũng mất mát nhiều. Đại hồng chung hiện còn lưu giữ pháp khí được đúc vào năm Bảo Đại thứ 12 (1937), do một vị Tăng bổn tự là Lê Chuẩn hiệu Hoành Niệm phụng cúng. Văn khắc trên chuông kiểu chữ lớn, chỉ có 19 chữ Hán chia làm 4 dòng:

保 大 拾 弍 年 吉 日 寳 金 寺 僧 寺 黎 凖 号 宏 念 奉 供

(Bảo Đại thập nhị niên cát nhật. Bửu Kim [7] tự tăng tự Lê Chuẩn hiệu Hoành Niệm phụng cúng). Hình dáng và trang trí chuông này hoàn toàn giống chuông đúc thời Bảo Đại ở Long Tuyền tự.

Một số nhận xét bước đầu

1/ Điểm chung nhất ở các chuông thời nhà Nguyễn là dáng thon dài, miệng loe nhưng không lớn. Kích cỡ thường dao động trong khoảng 80 – 100cm không tính quai chuông. Hai con rồng trên quai chuông đấu lưng vào nhau, miệng há ngậm ngọc, bườm dựng đứng, hai chi trước (hoặc chỉ chi phải) và phần thân trước tì xuống thân chuông. Họa tiết trang trí càng về sau càng đơn giản, thậm chí không có hoa văn trang trí như trường hợp hai chuông thời Bảo Đại ở chùa Long Tuyền và Kim Bửu. Văn khắc chuông chùa theo thời gian cũng đơn giản hơn, chỉ ghi thời gian đúc và người trụ trì/ chứng minh/ phụng cúng. Trong số các chuông đã giới thiệu, chuông chùa Long Tuyền (thời Duy Tân) có văn khắc dài nhất, không có lời kệ và chú nguyện mà chỉ khắc danh tính người trợ cúng. Hai chuông thời Bảo Đại có văn khắc ngắn nhất, đều 19 chữ Hán.

2/ Về niên đại: chuông chùa Viên Giác đúc sớm nhất năm 1814, chuông chùa Kim Bửu có niên đại muộn nhất, năm 1937. Trong 9 đại hồng chung giới thiệu, chỉ có chuông thời Duy Tân ở chùa Long Tuyền là được đúc vào năm dựng chùa, còn lại đều vào các dịp khác.

3/ Về kích thước, cân nặng: so với các đại hồng chung đời trước, chuông thời Bảo Đại có kích thước nhỏ hơn, cân nặng theo đó cũng ít hơn. Chuông chùa Long Tuyền thời Duy Tân là chuông duy nhất cho biết cân nặng.
4/ Các đại hồng chung này có giá trị sử liệu quan trọng trong nghiên cứu tình hình Phật sự ở thành phố Hội An nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung. Một số lạc khoản về người trụ trì hoặc chứng minh giúp bổ trợ thông tin hành trạng các Thiền Tăng xứ Quảng. Sự hiện diện của các di vật này không thể bỏ qua trong quá trình nghiên cứu Phật giáo của địa phương.

 

Chú thích:

* Tiến sĩ Lê Xuân Thông, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ (TP. Đà Nẵng).

** Thạc sĩ Đinh Thị Toan, Nhà Trưng bày Hoàng Sa (TP. Đà Nẵng).

[1] Văn bia chùa Viên Giác, Chùa Viên Giác, Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam.
[2] Dẫn theo Thích Như Tịnh (2009), Lịch sử truyền thừa thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, Nxb Phương Đông, tr.158.
[3] Nguyên Thiều tức Nguyên Thiều Siêu Bạch Thọ Tông (1648-1728) người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), xuất gia tại chùa Báo Tư, kế đăng đời thứ 33 tông Lâm Tế. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định Nguyên Thiều kế truyền tông môn theo hai dòng kệ: Tổ Định Tuyết Phong và Đạo Mân Mộc Trần. Theo dòng Tổ Định Tuyết Phong, ông có pháp danh Siêu Bạch, tức đứng hàng chữ “siêu” – chữ thứ mười hai trong bài kệ; theo dòng Đạo Mân Mộc Trần, ông có pháp danh Nguyên Thiều, tức đứng hàng chữ “nguyên” – chữ thứ ba trong bài kệ. Nguyên Thiều đến Đàng Trong năm 1677, lập chùa Thập Pháp Di Đà ở phủ Quy Ninh (Bình Định); sau, ra Thuận Hóa dựng chùa Vĩnh Ân (tức Quốc Ân), rồi trụ trì chùa Hà Trung. Minh Lượng nối pháp theo cả hai dòng kệ như sư phụ Nguyên Thiều.
[4] Pháp hiệu của thiền sư này có chỗ chưa đồng nhất, có nơi ghi là Hoằng Tông 弘宗, ở đây ghi Hoành Tông 宏宗.
[5] https://baodanang.vn/channel/6058/202009/truyen-thuyet-chuong-dong-co-chua-hai-tang-3702989/. Ngày truy cập 04/6/2021.
[6] Thích Như Tịnh (2009), Lịch sử truyền thừa thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, Nxb Phương Đông, tr.158.
[7] Ở đây ghi là Bửu Kim, chứ không phải Kim Bửu.

One thought on “Những đại hồng chung thời nhà Nguyễn ở TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam (TS. Lê Xuân Thông, ThS Ðinh Thị Toan)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *