DẪN NHẬP
Phật giáo truyền vào nước ta khoảng ở thế kỷ thứ II. Theo các tư liệu thư tịch, cho thấy Phật giáo du nhập vào Phù Nam khá sớm. Đến thế kỷ XVII, dưới thời các chúa Nguyễn, Phật giáo tiếp tục được truyền vào Nam bộ theo các đoàn di dân. Khi Phật giáo được truyền vào Nam bộ, nhiều ngôi chùa với kết cấu tạm được dựng lên để làm nơi truyền đạo, về sau các ngôi chùa được trùng tu dần trở nên khang trang. Theo thời gian, một số ngôi chùa ở Nam bộ đã trở thành ngôi chùa cổ. Trong đó, chùa Giác Viên là một trong những ngôi chùa cổ tại TP. Hồ Chí Minh. Hiển nhiên, chùa Giác Viên tồn tại với kiến trúc độc đáo và có những giá trị đặc sắc trong lịch sử Phật giáo và dân tộc. Hiện nay, chùa đã được công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia.
KHÁI LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHÙA GIÁC VIÊN
Chùa Giác Viên hình thành trong thời gian trùng tu chùa Giác Lâm năm 1798. Nguyên là, trong quá trình vận chuyển gỗ bằng đường thủy về để trùng tu chùa Giác Lâm, Tổ Tiên Giác Hải Tịnh [1] (1788 -1875) đã chọn bến Hồ Đất (hiện nay là đường Lạc Long Quân, quận 11, TP HCM) làm nơi chứa gỗ. Khi gỗ đến bến Hồ Đất được vận chuyển về chùa Giác Lâm bằng xe do sức trâu kéo. Để trông coi gỗ tại bến Hồ Đất, “Tổ Hải Tịnh bèn chọn ông hương đăng, xuống bến đốn cây nhỏ xung quanh cất lên một cái nhà nhỏ rất vén khéo. Cất xong ông thỉnh tượng Phật Quan Âm, kinh tụng, chuông mõ, bàn ghế. Ông trang trí cái nhà nhỏ thành cái am. Sáng chiều ông hương đăng cũng công phu, tối lại trì kinh Tịnh Độ y như ở chùa” [2]. Về sau được sự thỉnh cầu của vị hương đăng [3], Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh cho xây dựng lên chùa bằng cây lá, đặt tên là Quan Âm viện.
Thời gian trùng tu chùa Giác Lâm kéo dài đến năm 1802 mới hoàn thành. Sau khi hoàn thành, Tổ Tiên Giác Hải Tịnh mở lớp giảng về Kinh, Luận cho chư Tăng lục tỉnh về theo học tại chùa. Về sau, Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh nhận thấy việc ứng phú đạo tràng là cách truyền bá giáo lý rất hữu ích cho nhân sinh. Nhưng để truyền bá Phật pháp đi đúng hướng, đòi hỏi người thực hành ứng phú phải có đầy đủ phẩm chất và giới hạnh. Vì thế, đến năm 1850, Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh đổi tên Quan Âm viện thành chùa Giác Viên và mở lớp đào tạo ứng phú sư tại chùa.
Đến năm 1869, Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh giao cho đệ tử là Tổ Hoằng Ân – Minh Khiêm [4] (1850 – 1914) trụ trì chùa Giác Viên. Trong khoảng thời gian Tổ Hoằng Ân – Minh Khiêm trụ trì, Tổ giảng dạy Kinh, Luận và ứng phú cho chư Tăng lục tỉnh đến học. Sau nhiều năm làm trụ trì, Tổ Hoằng Ân – Minh Khiêm trùng tu lại ngôi chùa Giác Viên vào năm 1899. “Đây là lần trùng tu lớn, mở rộng diện tích mặt bằng chùa, chánh điện cũng được xây dựng lại” [5]. Công việc xây cất gần 3 năm mới hoàn tất.
Lần trùng tu thứ 2 vào năm 1908 do hòa thượng Hoằng Nghĩa – Như Phòng phụ trách. Trùng tu lần 3 vào cuối thập niên 20 thế kỷ XX, do hòa thượng Hồng Hưng – trụ trì chùa Giác Lâm đứng ra đảm trách. Trùng tu lần thứ 4 là sửa chữa tôn tạo công trình Đông lang và Tây lang năm 1991. Từ khi thành lập đến nay, chùa đã trải qua các đời trụ trì: Người hương đăng, Hòa thượng Minh Khiêm, Như Nhu, Như Phòng, Hồng Từ, Nhựt Xuân, Huệ Viên. Hiện nay, chùa Giác Viên được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, do Thượng tọa Thích Từ Phát quản lý.
KIẾN TRÚC VÀ CÁC HÌNH TƯỢNG TRONG CHÙA GIÁC VIÊN
Kiến trúc chùa
Chùa Giác Viên trước là nơi chứa gỗ để trùng tu chùa Giác Lâm, khi trùng tu xong, số lượng gỗ còn thừa lại mới sử dụng cho việc trùng tu chùa Giác Viên. Do đó, chùa Giác Viên có diện tích nhỏ hơn so với chùa Giác Lâm. Chùa có lối đi vào từ phía sau, xây dựng với kiến trúc tổng thể gồm: Cổng tam quan, ngôi Chánh điện, nhà Trai đường, Đông lang, Tây lang, vườn tháp,… Ngôi chùa có hai nếp nhà theo kiểu Mandala ghép liền nhau. Tính từ Cổng tam quan đi vào là nếp nhà Trai đường tiếp đến là Hậu tổ và Chánh điện. Hai bên là một dãy Đông lang và một dãy Tây lang.
Chính điện của chùa Giác Viên được xây theo kiểu nhà dân gian truyền thống một gian, hai chái hay còn gọi là kiểu Mandala. Giữa cột, xuyên, trính,… được cấu tạo với nhau theo kiểu “đâm trính nhà rường hay kiểu trính trống” [6]. Từ bốn cột chính lan rộng ra những cột nhỏ hơn và thấp dần tạo thành bốn mái và nhọn dần phía trên. Trên những cây cột đều được khắc những câu đối, liễn. Đặc biệt, “ở phía trên 4 cột chính có bốn tượng Thiên Vương đỡ lấy xà ngang Chánh điện biểu hiện một sức mạnh siêu phàm” [7].
Vách bao quanh Chánh điện được xây bằng bê tông. Phía ngoài bức tường bê tông là hành lang hai bên của Chánh điện. Phía trước sân nhìn vào Chánh điện là hành lang mặt trước của Chánh điện. Hành lang này, có 8 cột gỗ để đỡ mái nhà, phía bên ngoài 8 cây cột gỗ còn có 8 cây cột bằng bê tông. Trên 8 cột bằng bê tông đều xây thêm bê-tông tạo thành 7 vòm vòng cung và trên mỗi đầu cột đều trang trí những họa tiết theo kiểu kiến trúc phương Tây. Mái chùa được lợp bằng ngói âm dương Lái Thiêu. Trên những con lươn của mái chùa được trang trí tượng Tứ linh (long, lân, quy và phụng) bằng gốm sứ. Bên trong Chánh điện có nhiều bao lam, hoành phi, liễn đối sơn son thếp vàng, chạm trổ công phu với nhiều hình dạng, thể loại khác nhau.
Nhà trai đường: Nếp nhà trai đường được thiết kế theo kiểu Mandala như Chánh điện. Nhà trai đường là nhà tiếp nói với Chánh điện, nơi đây trước kia là trai đường nhưng nay chỉ để thờ tượng Chuẩn đề Bồ tát. Hai bên tả hữu Nhà trai đường có hai dãy Tăng phòng. Phía bên ngoài hai dãy Tăng phòng là hai dãy chiều dọc để thờ bài vị của những người phật tử quá vãng.
Đông lang và Tây lang: Tiếp nối giữa hai bên song song với Chánh điện và nhà trai đường là nhà Đông lang và Tây lang. Đông lang và Tây lang được trùng tu gần đây nhất là vào năm 1991. Đông lang và Tây lang đều làm theo kiểu 3 gian 2 chái, mái lợp ngói âm dương. Đông lang, căn giữa thờ tượng Giám trai sứ giả bằng gốm Sài Gòn vào thế kỷ XIX. Tây lang, căn giữa thờ tượng Kiên Lao Địa thần và ba tượng Phước – Lộc – Thọ bằng gỗ. Đông lang, Tây lang đều có nhiều bao lam chạm trổ, liễn đối sơn son thếp vàng. Dưới nền được lát bằng gạch tàu hình lục giác liền kề nhau tạo nên kiểu lát biểu tượng hình kim quy. Nối tiếp với Đông lang là Nhà trù (nhà bếp). Tuy chùa Giác Viên được xây dựng sau và nhỏ hơn chùa Giác Lâm nhưng điểm độc đáo riêng của chùa Giác Viên là có Đông lang và Tây lang còn chùa Giác Lâm thì không.
Chùa Giác Viên có 57 bao lam, được chạm trổ với nhiều hình dạng khác nhau như: Có tấm bao lam hình Bá điểu, mỗi con ở tư thế khác nhau có con đậu, con bay, con tranh mồi,… Có bao lam chạm khắc 18 vị La Hán thượng kỳ thú kết hợp với các vân mây, mỗi bên là 9 vị. Mỗi vị đều ngồi trên một con thú với nhiều kiểu dáng khác nhau, trên tay cầm một pháp khí với ý nghĩa đặc trưng về hạnh nguyện của từng vị. Đặc biệt, bao lam ở Hậu tổ chạm cả hai mặt số còn lại là một mặt. Đông lang và Tây lang có các bao lam được chạm trổ hình khỉ bắt chim, Bá điểu, La võng câu cá, Tô vũ chăn dê, Cúc trĩ, Ngư ông đắc lợi và những hình khác tượng trưng cho bốn mùa như: Tùng, cúc, trúc, mai. Hoặc trái mãng cầu, xoài,… biểu tượng cho sự được mùa, đầy đủ, sung túc ở Nam bộ. “Đây là những tác phẩm điêu khắc tuyệt vời, khiến người ta nghĩ đến bàn tay khéo léo của những người thợ chạm Lái Thiêu” [8]. Chùa Giác Viên có dạng kiến trúc tổng hợp ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, trong đó, có ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây.
Tượng thờ:
Chùa Giác Viên có 153 pho tượng, làm bằng gỗ mít, được tạo tác vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Điểm chú ý là các pho tượng ở chùa Giác Viên được tạo tác đều nhỏ hơn so với tượng ở chùa Giác Lâm.

Bàn thờ giữa ở Chánh điện, cấp trên cùng bố trí theo chiều ngang là Tây Phương Tam Thánh gồm tượng A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát. Cấp thứ hai là tượng Ngọc Hoàng và hai bên là Nam Tào, Bắc Đẩu. Cấp thứ ba là bộ tượng Tam tôn: gồm Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di Đà, Đức Phật Di Lặc. Cấp thứ tư bộ tượng Đức Phật Di Lặc, 2 bên có tượng ngài Ca Diếp, A Nan và hai tượng Hộ pháp. Cấp thứ năm bộ tượng Ngũ vị gồm Đức Phật Thích Ca và bốn vị Bồ tát (Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi bên tay trái và Đại Thế Chí, Đại Hạnh Phổ Hiền bên tay phải của tượng Phật Thích Ca). Tượng Phật Thích Ca được đặt trên đài sen còn bốn vị Bồ tát cưỡi trên lưng bốn con thú với tư thế nằm. Bốn con kỳ thú nằm tượng trưng cho sự nhàn rỗi, tức chỉ cho việc hóa độ đã được thành tựu. So với bộ tượng Ngũ vị ở chùa Giác Lâm thì bốn vị Bồ tát cưỡi trên bốn kỳ thú với tư thế đứng, tức chỉ cho đang đi hóa độ. Theo Trần Hồng Liên: “Tìm hiểu bộ tượng này,… góp phần tìm hiểu tính độc đáo, tính sáng tạo cư dân có tín ngưỡng ở vùng đất mới Nam bộ dưới triều Nguyễn” [9]. Ngoài tín ngưỡng, đây còn là nét đặc trưng của sự truyền bá Phật giáo vào vùng đất mới.
Trên là hệ thống tượng thờ thực tế hiện nay, nhưng so với nghiên cứu của Nguyễn Quảng Tuân, Huỳnh Lứa, Trần Hồng Liên được đề cập trong tác phẩm Những ngôi chùa ở Thành phố Hồ Chí Minh thì hệ thống tượng thờ không có tượng của Ngọc Hoàng, Nam Tào và Bắc Đẩu ở cấp thứ hai (hình 2). Đây là 3 pho tượng do các vị trụ trì chùa thêm vào sau này.
Đối diện với bàn thờ giữa Chánh điện là tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện Đại Sĩ. Hộ Pháp là vị hộ trì Tam bảo. Tiêu Diện Đại Sĩ là Hóa thân của ngài Bồ tát Quán Thế Âm, chuyên hàng phục quỷ yêu, cứu độ chúng sanh.
Hai bên tả hữu vách của Chánh điện. Bàn thờ bên tả gồm 9 tượng La Hán, năm tượng Thập Điện Diêm Vương và tượng Địa Tạng Vương Bồ tát cưỡi con Đề Thính. Cấp bàn thờ thứ hai gồm tượng Quan công, Quan Bình, Châu Xương bằng gốm sứ Sài gòn. Bàn thờ bên hữu gồm 9 tượng La Hán, năm tượng Thập Điện Diêm Vương và Tượng Long Vương (đầu rồng).
Hậu tổ (khu thờ Tổ) được sắp đặt thành gian và bài trí ba bàn thờ Tổ. Bàn thờ ở gian chính giữa, cấp trên cùng là tượng Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh, và một số long vị của các bậc tiền bối, ở cấp thứ hai là tượng Tổ Bồ-đề-đạt-ma cao 5 cm. Gian bên trái của Hậu tổ là bàn thờ tượng Tổ Hoằng Nghĩa – Như Phòng và các long vị. Gian bên phải của Hậu tổ là bàn thờ tượng Tổ Hoằng Ân – Minh Khiêm. Hai bên vách của Hậu tổ, bên trái là tượng Đại Hạnh Phổ Hiền, bên phải là tượng Văn Thù Sư Lợi. Đối diện với bàn tổ chính giữa là tượng Chuẩn Đề cưỡi con công có 18 tay cầm 18 pháp khí.

(Ảnh: Thích Minh Thành)
Các pho tượng tại chùa Giác Viên tuy có kích thước nhỏ hơn so với tượng ở chùa Giác Lâm nhưng phong cách điêu khắc đa dạng hơn. Do các tượng ở chùa Giác Lâm nghệ nhân khắc theo khuôn mẫu còn ở Giác Viên nghệ nhân khắc tự do, không theo khuôn mẫu nào nên các pho tượng nơi đây có nét độc đáo riêng. Tuy nhiên, trong đó cũng có nét ảnh hưởng từ phong cách điêu khắc của người Hoa như nét khuôn mặt tròn đầy đặn, mình to khỏe, mắt xếch, sống mũi thẳng,… cùng với mỹ thuật điêu khắc của Nam bộ đã tạo nên những kiệt tác có giá trị cao và tồn tại cho đến ngày hôm nay.
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ, KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO CỦA CHÙA GIÁC VIÊN
Giá trị về lịch sử
Chùa Giác Viên có chiều dài lịch sử gần 200 năm, đã có nhiều đóng góp trong lịch sử tín ngưỡng và truyền bá Phật giáo tại Gia Định, nay là TP. Hồ Chí Minh. Có thể nói, đây là cầu nối vượt thời gian về lịch sử từ khi Phật giáo mới truyền đến từ thời Nguyễn cho tới hiện tại và tương lai. Chùa được xếp vào Di tích Lịch sử quốc gia và công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 43 – VH/QĐ ngày 7/1/1993. Chùa Giác Viên là một trong những ngôi chùa góp phần làm nên lịch sử Phật giáo vùng đất Nam bộ.
Cùng với nghệ thuật điêu khắc, tạc tượng, trang trí các họa tiết trên tượng qua các giai đoạn khác nhau nhưng để lại hiện vật giá trị lịch sử to lớn của các pho tượng tại chùa Giác Viên. Đó cũng là hiện vật cổ của đất nước còn lưu lại cho đến nay. Các bộ tượng còn đánh dấu lịch sử bước đầu của quá trình truyền bá Phật pháp vào vùng đất ở Nam bộ. Qua nghệ thuật tiêu biểu lịch sử nghệ thuật chạm khắc gỗ ở đất Gia Định giai đoạn cuối thế kỷ XIX. Chùa và các tượng trong chùa còn là tư liệu, hiện vật góp phần cho những ai nghiên cứu lịch sử, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của Việt Nam nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam ở Nam bộ nói riêng.
Giá trị về văn hóa
Với kiến trúc chùa được xây dựng theo kiểu Mandala, đó là kiệt tác của người Việt trong giai đoạn Phật giáo được truyền vào vùng đất mới. Tuy nhiên, kiến trúc chùa cũng có phần sự kết hợp với phong cách phương Tây. Chính vì thế, chùa có nét đặc sắc văn hóa riêng so với các chùa khác trong khu vực. Ngoài ra, trên các con lươn của nóc Chánh điện còn bài trí thêm Tứ linh tạo nên sự kết hợp hài hòa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Với các bộ tượng được tạo tác và bài trí trong chùa Giác Viên, tạo nên đặc sắc văn hóa sáng tạo riêng của ngôi chùa. Đặc biệt, là bộ tượng Ngũ vị được tạc dưới dạng “thượng kỳ thú”. Bộ tượng này chỉ có trong một số ngôi chùa ở Nam bộ. Những ngôi chùa thờ bộ tượng Ngũ vị ở TP. Hồ Chí Minh như: Chùa Giác Lâm (Tân Bình), chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn (quận 11), chùa Long Thanh (Bà Hôm – Bình Chánh),… Ngoài ra, chùa Giác Viên còn có một số pho tượng được điêu khắc kết hợp với nét văn hóa nghệ thuật Trung Quốc, tạo nên sự đa dạng, kế thừa và sáng tạo góp phần tạo nên văn hóa đặc thù của ngôi chùa.
Giá trị về khoa học và tôn giáo
Các hiện vật, di vật, kiến trúc, nghệ thuật tạo tượng, hệ thống trang trí của chùa Giác Viên là tư liệu quan trọng trong việc nghiên cứu. Vì đây là ngôi chùa có di tích trên 100 năm tuổi. Dựa trên ngôi chùa và các hiện vật, các nhà nghiên cứu có thể khai thác được nhiều khía cạnh khác nhau như: lịch sử, văn hóa, tôn giáo,…
Kiến trúc chùa và các hệ thống bài trí tượng thờ góp phần trang nghiêm nơi thánh địa. Đây là một trong những ngôi chùa sớm hình thành trên vùng đất Gia Định. Chùa giúp người khi đến đây nhận thấy sự thanh tịnh, mát mẻ, linh thiêng và trút bỏ mọi ưu phiền trong cuộc sống. Chùa Giác Viên không chỉ là nơi đáp ứng nhu cầu về mặt tín ngưỡng tâm linh cho người dân khu vực này ở hiện tại mà đã đáp ứng suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của ngôi chùa.
Chùa còn là nơi giao lưu văn tôn giáo với nước khác cụ thể là Trung Hoa, thông qua các nghệ thuật chạm khắc tượng thờ, cho đến ý nghĩa của tượng như 18 tượng La Hán. Theo tác giả Trần Hồng Liên: “Phật giáo truyền vào nước ta từ phía Ấn Độ và Trung Quốc nên ở Việt Nam phổ biến hai thuyết chính về nguồn gốc các vị La Hán, một là từ Ấn độ có 16 vị và một là từ Trung Quốc là 18 vị” [10] . Như thế, chùa thờ 18 tượng La Hán là ảnh hưởng từ sự tiếp biến tư tưởng Trung Hoa. Ngoài ra, bộ tượng Ngũ vị nói lên nét riêng về tín ngưỡng tôn giáo của vùng đất Nam bộ. Qua đó, bộ tượng Ngũ vị này nói lên tinh thần nhập thế của Phật giáo, đi vào đời hóa độ nhân sanh. Bốn vị Bồ tát đó là đại diện cho hạnh nguyện của Đức Phật Thích Ca. Người thực hành truyền bá Phật giáo đều phải thực hành theo các hạnh nguyện của bốn vị Bồ tát này.
KẾT LUẬN
Chùa Giác Viên được hình thành vào cuối thế kỷ XVIII nhưng đến nữa thế kỷ XIX mới được đổi tên thành chùa Giác Viên. Chùa được thiết kế theo kiểu Mandala, với hai nếp nối tiếp nhau, kết hợp với phong cách kiến trúc phương Tây làm cho kiến trúc chùa trở nên đa dạng hơn. Đặc biệt, chùa Giác Viên tuy nhỏ hơn chùa Giác Lâm nhưng có Đông lang và Tây lang. Các bao lam được chạm khắc với nhiều hình dáng khác nhau, góp tạo nên nét thẩm mỹ, trang nghiêm của ngôi chùa. Hệ thống những tượng thờ tại chùa Giác Viên được tạo tác vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, với phong cách tạo tượng của các nghệ nhân một cách tự nhiên, không gò bó theo khuôn khổ, tạo nên sự đa dạng về các pho tượng.
Với kiến trúc và những tượng thờ như thế đã tạo nên sự trang nghiêm của ngôi chùa, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh cho tín đồ phật tử gần hai thế kỷ qua. Đồng thời, chùa đã để lại những giá trị quý giá về lịch sử, văn hóa, tôn giáo. Khi đến ngôi chùa cổ kính Giác Viên làm cho người ta chợt nghĩ tới giá trị tinh thần trong Phật giáo đã trải qua bao thế hệ, góp phần làm cho Phật giáo phát triển tại Nam bộ.
Chú thích:
* ĐĐ. Thích Minh Thành – Học viên Cao học khóa V tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.
[10] Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh thuộc đời thứ 37 phái Lâm Tế Gia Phổ.
[2] Thiền Hòa tử Huệ Chí (2002), Buổi đầu của Phật giáo Gia Định – Sài Gòn, Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định – Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh, Nxb. TP HCM, tr.61.
[3] Người làm hương đăng, không rõ tên.
[4] Tổ Hoằng Ân – Minh Khiêm thuộc đời thứ 38 phái Lâm Tế Gia Phổ.
[5] Hồng Liên (biên soạn, 2014), Chư tiền bối Tổ sư truyền thừa tại tổ đình Giác Lâm, Nxb. Đồng Nai, tr.68.
[6] Đặng Văn Thắng, Kiến trúc và tượng tháp, chùa Việt Nam (tiếp cận khảo cổ học), Khảo cổ học Việt Nam Archaeology, Viện Hàn Lâm Khoa học và xã hội – Viện Khảo cổ học, tr.66.
[7] Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Cự, Phạm Ngọc Long (2013), Chùa Việt Nam, Nxb. Thế giới, tr.408.
[8] Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Cự, Phạm Ngọc Long (2013), Chùa Việt Nam, Nxb. Thế giới, tr.410.
[9] Trần Hồng Liên (2019), Chùa Giác Lâm – Di tích lịch sử – văn hóa, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. tr.87.
[10] Trần Hồng Liên (2019), Chùa Giác Lâm – Di tích lịch sử – văn hóa, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. tr.84.
Tài liệu tham khảo:
1. Thiền Hòa tử Huệ Chí (2002), Buổi đầu của Phật giáo Gia Định – Sài Gòn, Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định – Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh, Nxb. TP HCM.
2. Trần Hồng Liên (2019), Chùa Giác Lâm – Di tích lịch sử – văn hóa, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Hồng Liên (biên soạn) (2014), Chư tiền bối Tổ sư truyền thừa tại tổ đình Giác Lâm, Nxb. Đồng Nai.
4. Nguyễn Quảng Tuân, Huỳnh Lứa, Trần Hồng Liên (1993), Những ngôi chùa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. TP HCM.
5. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Cự, Phạm Ngọc Long (2013), Chùa Việt Nam, Nxb. Thế giới.
6. Đặng Văn Thắng, Kiến trúc và tượng tháp, chùa Việt Nam (tiếp cận khảo cổ học), Khảo cổ học Việt Nam Archaeology, Viện Hàn Lâm Khoa học và xã hội.