Hòa thượng Thích An Chánh và ngôi chùa Bác Ái – Gia Lai (Thích Đồng Tri)

              Duyên khởi

            Những năm đầu thế kỷ XX, khi chính quyền bảo hộ thực dân Pháp đang bị khủng hoảng trầm trọng, họ lại tăng sưu thuế đối với Việt Nam, làm cho dân tình càng thêm đói khổ, nạn đói xảy ra khắp nơi, nhân dân tha phương cầu thực, trong số đó có người lại lên Kon Tum để sinh sống, nhưng vì là vùng rừng thiêng nước độc, nhiều người phải bỏ mạng nơi đất khách quê người. Với mong ước có một ngôi chùa để làm nơi nương tựa về mặt tâm linh, làm dịu bớt những đau khổ trong tâm hồn của những con người con xa quê hương, và cũng là nơi tế độ, thờ tự tưởng nhớ những người đã mất. Đó là lý do ngôi chùa Sắc tứ Bác Ái ra đời.

            Với điều kiện khó khăn mọi bề như vậy, lại có thể xây dựng được một ngôi chùa thờ Phật làm nơi nương tựa tâm linh, nơi bảo tồn những giá trị văn hóa tinh thần cho người dân, là thắng cảnh của địa phương, là nơi đã đào tạo hướng dẫn biết bao thế hệ con người với lối sống đạo đức, biết yêu thương chia sẻ, đây quả là một vấn đề vô cùng gian nan.

            Đây cũng là nơi còn giữ lại những hiện vật có giá trị lịch sử của triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta. Nơi đây còn bảo tồn những mộc bản kinh bằng chữ Hán và lưỡng tự Hán Việt. Nghệ thuật điêu khắc tượng gỗ. Bên cạnh đó còn những tấm liễn đối, hoành phi bằng chữ Hán được chạm khắc công phu trên những tấm gỗ, cột gỗ có giá trị trên hàng trăm năm, đặc biệt là mỹ thuật tạo tượng bằng đất nung của người Việt vô cùng tinh tế.

            Thân thế

            Hòa thượng Thích An Chánh, thế danh Trần Văn Sách, sinh năm 1922, tại thôn Cổ Phú, xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Vốn sinh trưởng trong gia đình Nho giáo, do mẹ mất sớm, nên khi lên 6 tuổi được gia đình cho vào chùa theo các thầy học chữ Nho từ rất sớm, vì thế khi lớn lên ngài được khen là uyên thâm nho học, đặc biệt hơn là tài năng viết chữ Hán, với đường nét sắc sảo khó có người sánh kịp.

            Năm 1934, lúc lên 12 tuổi, ngài được thế độ xuất gia học Phật với bổn sư là Hòa thượng Thích Trí Hưng tại chùa Sắc tứ Từ Lâm, xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, được Hòa thượng đặt pháp danh là Như Vinh. Là người đệ tử đầu tiên của Hòa thượng bổn sư có tư chất thông minh, cộng với sự hiếu học, ngài đã chuyên cần nổi bật hơn các huynh đệ cùng thời, đặc biệt với vốn kiến thức Hán học nên ngài tiếp xúc với kinh điển rất dễ dàng, sớm nổi danh là một tu sĩ tài giỏi xuất chúng.

            Sau 7 năm học đạo, năm 1941, khi vừa tròn 20 tuổi, ngài thọ Tam đàn Cụ túc giới tại giới đàn chùa Sắc tứ Thạch Sơn, xã Nghĩa Phú, tỉnh Quảng Ngãi do Hòa thượng Diệu Nguyên làm Đàn đầu Hòa thượng. Sau khi thọ giới, ngài được bổn sư phú pháp tự là Giải Lộc, pháp hiệu An Chánh, nối pháp đời thứ 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 dòng thiền Chúc Thánh.

            Năm 1938, Hội An Nam Phật Học tại Quảng Ngãi do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và bác sĩ Hoàng Mộng Lương chủ trương thành lập. Hội do bác sĩ Hoàng Mộng Lương(1) làm Hội trưởng, ông Đại học sĩ triều Nguyễn là Lâm Tô Bích, pháp danh Thị Độc, làm Phó Hội trưởng, Giáo sư Phan Tiên làm Thư ký và hội “Cung thỉnh Đại lão Hòa thượng Hoằng Thạc, Tăng cang Diệu Quang và Hòa thượng Trí Hưng làm Chứng minh Đạo sư kiêm cố vấn đạo hạnh cho hội”(2), cũng trong bối cảnh này ngài có dịp theo làm thị giả cho Hòa thượng Hoằng Thạc và Hòa thượng bổn sư, nên có nhiều cơ hội tiếp xúc, học tập với nhiều vị danh tăng đương thời, trong lĩnh vực chấn hưng Phật giáo.

            Năm 1945, theo sử liệu trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận thì “Từ Nam ra Bắc, Phật tử đủ các giới tham dự vào cách mạng. Các đoàn thể Tăng già Cứu quốc và Phật giáo Cứu quốc được thành lập khắp nơi”(3). Cùng năm này, báo Đuốc Tuệ ở miền Bắc lên tiếng kêu gọi Tăng ni các nơi mau mau lập đoàn Tăng già Cứu quốc, theo mục đích ấy mà tham gia vào công cuộc cách mạng hiện thời. Đặc biệt, bìa sau báo Đuốc Tuệ số 257-258 ra ngày 15.8.1945 đăng những khẩu hiệu và những lời kêu gọi tham gia kháng chiến:

            Ủng hộ chính quyền Nhân dân

            Mau mau gia nhập Đội quân Giải phóng Việt Nam

            Chống mọi cuộc xâm lăng

            Việt Nam độc lập hoàn toàn

            Hãy sửa soạn nghênh tiếp Chính phủ Lâm thời

            và Đoàn quân Giải phóng sắp về tới nơi

            Hãy đọc Cứu Quốc, cơ quan của Mặt trận Việt Minh”.

            Đó là lời kêu gọi vì lòng yêu nước, vì tinh thần độc lập tự chủ của một dân tộc, chứ không phải xuất phát từ một phe phái chính trị nào, nên được Tăng ni và Phật tử nhiệt tình hưởng ứng. Vì thế, ngài cũng không ngoại lệ, từ khi tiếp xúc với những lời kêu gọi trên, ngài cũng tích cực tham gia trong Hội Phật giáo Cứu quốc Trung bộ và Thừa Thiên do Hòa thượng Trí Thủ và một số vị khác thành lập, thể hiện được tinh thần của một công dân yêu nước.

            Tuy nhiên, con đường cách mạng không đơn giản như trên sách vở, mà “là một con đường đầy chông gai hiểm trở, không phải là những chông gai hiểm trở vật chất mà là những xót xa và rách nát của tâm hồn gây nên do áp lực phải lựa chọn. Dấn thân vào cách mạng bằng một tâm hồn trong trắng, chỉ trong vòng hai ba năm là tâm hồn ấy có thể rách nát, bầm tím và có khi chai sạn. Nguyên do thảm trạng này là hiện tượng cạnh tranh của các phe phái chính trị và tính cách bất khoan dung của các ý thức hệ”(4)

            Chính vì còn nhiều vấn đề tồn đọng không thể giải quyết được đó mà ngài đã buông bỏ tất cả, nhanh chóng trở lại chốn thiền môn, tiếp tục công cuộc phụng sự cho đạo pháp.

            Hành đạo

            Năm 1947, ngài tiếp tục theo Hòa thượng Trí Thủ tham gia trong phong trào phục hồi lại các cơ sở Phật giáo đã hư hoại của Hội An Nam Phật học tại Huế. Cuối năm 1947, ngài tham gia trong công tác chuẩn bị để tái khai giảng lớp Phật học tại Phật học đường Trung Việt (chùa Báo Quốc). Tại đây, ngài đã trải qua những ngày tháng chuyên tâm học tập giáo lý, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm từ những vị tiền bối, để sau đó vào miền Nam hoạt động tại Phật học đường Lưỡng Xuyên (tỉnh Trà Vinh) trong 2 năm.

            1950, ngài trở lại Huế, ở tại chùa Báo Quốc. Cũng trong năm này, cụ Võ Chuẩn, nguyên là Thượng thư của triều đình nhà Nguyễn, vốn là người chủ trương thành lập và đứng ra thiết kế xây dựng chùa Bác Ái, trong thời gian công tác làm chức Quản đạo tỉnh Kon Tum từ năm 1933 đến 1938, sau khi xây xong thì được triều Nguyễn sắc phong “Sắc tứ Bác Ái Tự”. Trong 5 năm đầu tiên khi thành lập, ngôi chùa được Hòa thượng Hoằng Thông ở Bình Định cử thầy Từ Vân lên trông coi chùa trong giai đoạn này. Vì thế, thầy Từ Vân được coi như là vị đệ nhất trụ trì của chùa này vậy. Thầy Từ Vân, pháp danh Thị Niệm, pháp tự Từ Ân, nối dòng Lâm Tế đời thứ 42, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh.

            Năm 1939, cụ Võ Chuẩn đã đại diện cho lời thỉnh cầu của bổn đạo, Phật tử tại tỉnh Kon Tum vào Huế trình lên Hội Sơn Môn Tăng Già Trung Việt, lúc ấy do ngài Hòa thượng Trí Hưng làm Hội trưởng, với mục đích cung thỉnh một vị thầy có đủ tài đức để lên trụ trì chùa Bác Ái ở Kon Tum. Hòa thượng An Chánh là người được bổn sư tuyển chọn.(5)

            Đây là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất trên vùng đất mới này, nơi mà người đồng bào dân tộc thiểu số chưa từng biết thế nào là chùa, là Phật giáo, theo miêu tả trong sách “Người Bana ở Kon Tum” thì người lương(6) mới xây dựng năm 1933 “một ngôi chùa kiểu cách rất ngộ nghĩnh gọi là chùa Bác Ái, có lẽ là ngôi chùa Annam thứ nhất ở phía Tây dãy Trường Sơn”(7).

            Tuy là người có hoài bão và nhiệt huyết trong phong trào chấn hưng Phật giáo, nhưng vì tinh thần phụng sự của một Sứ giả Như Lai, vì muốn đem ánh sáng của đức Phật đến với đồng bào Phật tử vùng cao nguyên Kon Tum, một tỉnh miền núi phía Tây dãy Trường Sơn với 80% dân số là người đồng bào dân tộc thiểu số, mà ngài đành bỏ lại tất cả những công việc đang phụng sự tại Huế, chia tay chư huynh đệ, một mình đến nơi tận cùng biên giới phía Tây của đất nước để làm nhiệm vụ hoằng truyền chánh pháp của Như Lai.

            Ngày 17/2/1950, ngài chính thức trụ trì chùa Bác Ái. Vì là vị Tăng duy nhất hoạt động dấn thân phụng sự trên mảnh đất xa xôi này, nên trách nhiệm vô cùng lớn lao, vừa làm Tăng trưởng tỉnh hội Kon Tum, kiêm nhiệm Trưởng Ban Hoằng pháp. Sự xuất hiện cấp thiết của ngài, cũng giống như sự cấp bách trong việc thành lập ngôi chùa vậy, vừa mang tính nhân văn, nhân đạo, vừa thể hiện được sự khát khao của người dân nơi đây, “những người làng ngoại(8) cũng xin phép lập một cái chùa, thờ Phật và quy y các vong linh những người chết mà thân thuộc không thể đem thi hài về xứ được, chùa ấy tên là chùa Linh Sơn. Công việc chia thành nhiều năm mới thành cuộc, song trong năm 1933 này, hết tháng Octobre này xong được một cái nhà sẽ làm lễ lạc thành”(9). Trong khoảng thời gian 41 năm trụ trì, từ năm 1950 đến 1991, ngài đã quy y cho hàng vạn tín đồ Phật tử, thành lập tổ chức Gia đình Phật tử Bác Ái, nhiều lần trùng tu lại ngôi chùa bị hư hoại do nhiều cuộc chiến tranh tàn phá.

            Năm 1952, ngài trùng tu lại nhà Tổ, 1957 tu bổ nhà Đông. Trong đó nặng nhất là cuộc chiến năm 1968, vì chùa là nơi các đồng chí cách mạng ẩn mình để hoạt động, nên chính quyền đương thời đã nhiều lần cho đại bác tấn công vào chùa, đã làm sập cổng tam quan, bể đại hồng chung, chánh điện hư hỏng nặng, và một số công trình phụ khác. Năm1968 là đại trùng tu, ngài đã đi khắp nơi vận động kinh phí, trùng tu lại chánh điện, thay lại tường đất bằng xi măng, cột kèo bằng gỗ, lợp lại ngói phần thượng điện…, riêng cổng tam quan xây mới lại theo kiến trúc cổng các chùa Bình Định, không theo kiểu cổ lầu như trước. Trong thời gian này, ngài làm lễ đúc đại hồng chung, đào giếng. Năm 1973, sửa lại lầu chuông, lầu trống, thay lại toàn bộ bằng gỗ.

            Ngoài công việc xây dựng Tam bảo, ngài còn mở những lớp dạy học, những khóa thực tập cắm trại cho học sinh tiểu học tại khuôn viên chùa Bác Ái, để đưa các em thiếu nhi sớm được tiếp xúc với đạo Phật, tạo nên những ký ức đẹp trong tuổi thơ hồn nhiên của các cháu thiếu nhi và những kỷ niệm này khó có thể phai nhạt trong ký ức, đó cũng là một cách để đem đạo Phật đến với mọi người.

            Đặc biệt, ngài còn mua nhiều ruộng đất để làm kinh tế nuôi dưỡng tăng chúng, mua đất xây dựng mới 3 ngôi chùa tại Kon Tum làm nơi tu học cho chư tăng và Phật tử tại địa phương, như chùa Hoa Nghiêm ở xã Phương Hòa (1959), chùa Pháp Hoa ở xã Hòa Bình (1967), chùa Phật Quang ở xã Phương Quý (1967).

            Với học vấn uyên thâm, giới luật tinh chuyên, ngài được thỉnh mời tham gia trong thành phần ban chức sự giới đàn, làm Đệ nhị tôn chứng tại đại giới đàn tổ chức tại chùa Nghĩa Phương, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, năm 1957. Trong giới đàn này, Hòa thượng Huệ Pháp khai sơn chùa Minh Tịnh, tỉnh Bình Định, làm Đàn đầu hòa thượng.

            Từ đó, vì mến mộ tài đức của của Hòa thượng An Chánh, Hòa thượng Huệ Pháp đã nhiều năm liền mời ngài về chùa Minh Tịnh làm giáo thọ sư giảng dạy nhiều lớp giáo lý cho chư Tăng ni và Phật tử từ năm 1957.

            Năm 1969, ngài được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng tại chùa Phước Long, Sài Gòn (nay thuộc phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh).

            Tuy Phật sự đa đoan, nhưng ngài cũng dành thời gian tham gia dịch thuật kinh sách, viết bài nghiên cứu Phật học, những tác phẩm còn lại của ngài như: kinh Bác Đại Nhân Giác giảng giải, Cực lạc ngũ thanh, Lòng thương thể hiện, Ngày đại lễ Phật đản, Mừng Phật đản sanh, Kỷ niệm mừng Phật Thích Ca thành đạo, Tứ Niệm xứ quán, Lược sử đức Phật A Di Đà…, ngoài ra còn có những tác phẩm được soạn thảo bằng chữ Hán, do chính tay ngài viết với nét chữ vô cùng đặc biệt, ngay cả người Hoa cũng khó có thể viết như ngài, như: Sa Di Luật Giải, Lăng Nghiêm Thần Chú, Kim Kang Bát Nhã Ba La Mật kinh, Thọ Mạng Đà La Ni kinh, Hồng Danh kinh, Vu Lan kinh, Nhị Thời Khóa Tụng Cổ Đại Bổn

            Năm 1991, sau bao năm phụng sự Phật pháp, sức khoẻ không còn sung mãn như tuổi đôi mươi, trong một con bạo bịnh, ngài thâu thần thị tịch tại chùa Bác Ái trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào Phật tử. Ngài là một tấm gương sáng về tinh thần dấn thân phụng sự đạo pháp, bên cạnh đó ngài còn là một công dân có tấm lòng yêu nước nồng nàn. Ngài hưởng thọ 70 tuổi, 50 hạ lạp, nhục thân được nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa.

            Trong di chúc ngài để lại lời nhắn nhủ dành cho bổn đạo Phật tử rằng ngoài việc phải tu tập thân khẩu ý tự hoàn thiện bản thân, thì phải ghi nhớ chùa Bác Ái là một di tích danh thắng của Phật giáo yêu nước Cổ Truyền trên tỉnh Kon Tum, chùa đã có nhiều đóng góp cho phong trào yêu nước, nên Phật tử phải có trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn ngôi chùa này.

            Đệ tử của ngài kế vị trụ trì đời thứ 3 chùa Bác Ái là Hòa thượng Thích Chánh Quang, pháp danh Thị Chương, pháp Tâm Huệ, nối pháp dòng Lâm Tế đời thứ 42, thế hệ thứ 9 dòng Chúc Thánh. Hòa thượng là thành viên Hội đồng Chứng minh TW. GHPGVN, Ngài sinh năm 1945, hiện đã 75 tuổi. Trụ trì đời thứ 4 là Đại đức Thích Đồng Trí, nối pháp dòng Chúc Thánh đời thứ 10, thầy là đệ tử của Hòa thượng Chánh Quang, cũng là người nhận thừa kế di chúc kế thừa chùa Bác Ái vào năm 2018.

            Nhân hội thảo khoa học về Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại nơi phát tích của Tổ Minh Hải Pháp Bảo, chúng tôi xin được ghi lại sự nghiệp truyền thừa vẻ vang của chư vị Hòa thượng tiền bối ở vùng đất cao nguyên Trung phần. Với chúng tôi, đây là niềm tự hào của lớp con cháu tổ sư đã góp phần làm sáng rỡ đạo pháp của thiền phái ở vùng đất cao nguyên vậy./.

 

 

 

            Chú thích:

  1. Thích Như Tịnh (2009), Lịch Sử Truyền Thừa Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh, NXB Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh, trang 250. “Hoàng Mộng Lương” còn tên gọi khác là Hoàng Mộng Long.
  2. Thích Đồng Bổn (2017), Danh Tăng Việt Nam Tập 1, NXB Tôn Giáo, trang 729.
  3. Nguyễn Lang (2012), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, NXB Phương Đông, trang 744.
  4. Nguyễn Lang (2012), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, NXB Phương Đông, trang 749.
  5. Trích: Lý lịch chùa Bác Ái biên soạn năm 1963.
  6. Người lương: chỉ những người từ vùng đồng bằng miền Trung mới lên Kon Tum, không theo đạo Thiên Chúa.
  7. Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng Chi (1937), Người Ba-na ở Kon Tum, tái bản lần thứ nhất, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, tái bản 2018, trang 111.
  8. Người làng ngoại: Là những người không theo đạo Ki Tô giáo.
  9. Nam Phong tạp chí, năm thứ 18, số 193, năm xuất bản 1934, trang 140.

            TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nam Phong tạp chí (1934), năm thứ 18, số 193, Năm xuất bản 1934,
  2. Nguyễn Kinh Chi- Nguyễn Đổng Chi (1937), Người ba-na ở Kon Tum, tái bản lần thứ nhất, Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh, Năm tái bản 2018.
  3. Nguyễn Lang (2012), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nxb Phương Đông.
  4. Thích Đồng Bổn (2017), Danh Tăng Việt Nam Tập 1, Nxb Tôn Giáo.
  5. Thích Như Tịnh (2009), Lịch Sử Truyền Thừa Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh, Nxb Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.