Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh Phú Yên và Tổ đình Pháp Hội, Bình Thuận (Thích Đồng Trung)

            Trong dòng lịch sử truyền thừa của Phật giáo Việt Nam có một dòng thiền mới xuất hiện mà sử sách gọi là dòng thiền Chúc Thánh. Từ khi Tổ Minh Hải – Pháp Bảo khai sơn, chùa Chúc Thánh đã trải qua hơn 300 năm và 12 đời trụ trì như sau:

  1. Ngài Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo
  2. Ngài Thiệt Diệu – Chánh Hiền.
  3. Ngài Pháp Diễn – Bảo Tràng
  4. Ngài Toàn Đăng – Bảo Nguyên.
  5. Ngài Toàn Nhâm – Vi Ý – Quán Thông.
  6. Ngài Chương Đạo – Tuyên Tùng – Quảng Viên.
  7. Ngài Chương Khoáng – Tuyên Điền – Chứng Đạo.
  8. Ngài Ấn Bính – Tổ Thuận – Phổ Bảo.
  9. Ngài Chơn Chứng – Đạo Tâm – Thiện Quả.
  10. Ngài Chơn Nhật – Đạo Chiếu – Quang Minh.
  11. Ngài Như Truyện – Giải Lệ – Trí Nhãn.
  12. Ngài Đồng Mẫn – Thông Niệm – Huệ Tánh.

            Từ Chúc Thánh, các đệ tử cũng như các pháp tôn nhiều đời của Ngài đã đem ánh sáng chánh pháp hoằng truyền khắp mọi nơi. Từ Quảng Nam, ra Thừa Thiên Huế, rồi Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận trở vào phía Nam đều có dấu chân hành hóa của chư Tăng thuộc Thiền phái Chúc Thánh. Hiện nay, dòng thiền Chúc Thánh đã truyền xuống đến các chữ Thánh, Thọ và sự ảnh hưởng của dòng thiền này càng ngày càng thêm phát triển và lớn mạnh.

            Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Phú Yên

            Tại Phú Yên, người truyền Phật giáo vào trước tiên là Hòa thượng Tế Viên thuộc Thiền phái Lâm Tế. Ngôi chùa đầu tiên ở Phú Yên được xây dựng vào giữa thế kỷ XVII là chùa Hội Tôn do Hòa thượng Tế Viên khai sáng và trụ trì. [Lịch sử Phú Yên từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, tr. 230]. Địa điểm chùa Hội Tôn ngày nay thuộc thôn Hội Tín, xã An Thạch, huyện Tuy An. Sau đó, chùa được dời qua thôn Diêm Điền gọi là chùa Cổ Lâm, thuộc xã An Ninh Tây, cách địa điểm cũ khoảng 300 mét. Trong suốt thế kỷ XVII – XVIII, sau chùa Hội Tôn ở Phú Yên có khoảng 20 ngôi chùa khác được xây dựng như chùa Châu Lâm (nay ở thôn Quảng Đức, xã An Thạch, Tuy An), chùa Long Quang (đường Nguyễn Công Trứ, thành phố Tuy Hòa)…

            Cũng trong khoảng thế kỷ XVII – XVIII, Thiền sư Minh Hải – Đắc Trí – Pháp Bảo (người Trung Quốc) đã sáng lập dòng thiền mới là Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Hội An, Quảng Nam. Người đầu tiên truyền dòng Lâm Tế Chúc Thánh đến Phú Yên là Thiền sư Pháp Chuyên – Diệu Nghiêm, đời thứ 3 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sau một thời gian hoằng pháp tại Phú Yên, thiền sư đã khai sơn chùa Từ Quang (còn gọi là chùa Đá Trắng, ở thôn Cần Lương, xã An Dân, Tuy An) vào năm 1797. Từ Tổ đình Từ Quang, các đệ tử của thiền sư Pháp Chuyên sau đó cũng khai sơn các chùa trong tỉnh như:

            – Chùa Khánh Sơn (thôn Phước Hậu, phường 9, thành phố Tuy Hòa);

            – Chùa Thượng Tiên Thọ Vân (thôn Thọ Vức, Hòa Kiến, thành phố Tuy Hòa);

            – Chùa Viên Quang (thôn Định Phong, xã An Nghiệp, Tuy An), v.v…

            Như vậy, suốt thế kỷ XVII – XVIII và kéo dài đến hết thế kỷ XIX, Phật giáo ở Phú Yên có sự đan xen nhiều tông phái. Tuy vậy, hầu hết các chùa ở Phú Yên đều theo Thiền phái Lâm Tế và phân thành 2 dòng kệ: Lâm Tế Liễu Quán và Lâm Tế Chúc Thánh. Từ đó, dòng Chúc Thánh hưng thịnh tại Phú Yên và liên tục phát triển vào các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa, Bình Thuận và lan tỏa đến các tỉnh miền Nam như hiện nay.

            Hệ thống Truyền thừa pháp phái Chúc Thánh tại Phú Yên & Tổ đình Pháp Hội, Bình Thuận

            Hệ thống truyền thừa pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Phú Yên đến nay đã trải qua 9 đời trên 250 năm.

            Tổ sư Pháp Chuyên – Luật Truyền – Diệu Nghiêm (1726- 1798), nối truyền pháp phái Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 36, thế hệ thứ 3 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

            Thiền sư Diệu Nghiêm, sinh quán thôn Cổ Tháp, xã Hoa Châu, phủ Thăng Hoa nay là Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Tổ tông thiền sư người Nghệ An, phủ Thừa Tuyên, cha Trần Văn Hiếu, mẹ họ Nguyễn.

            Thiền sư sinh vào giờ thìn ngày mồng 2 tháng 4, năm Bính Ngọ (1726). Lên 9 tuổi, thiền sư học chữ Nho. Năm 15 tuổi, ra kinh đô học và năm 18 tuổi (Ất Hợi – 1755) thiền sư đậu tú tài. Do một nhân duyên thù thắng, tổ giác ngộ về cuộc đời vô thường, nên Tổ đến chùa Phước Lâm, huyện Diên Phước (nay là thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam xin xuất gia và được Tổ Thiệt Dinh – Chánh Hiển – Ân Triêm nhận làm đệ tử. Hành điệu một thời gian, ngày 19 tháng 2 năm Ất Sửu (1745), nhân ngày khánh đản đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tổ thỉnh cầu Tổ Ân Triêm thế phát xuất gia và được ban cho pháp danh là Pháp Chuyên, tự Luật Truyền, nối pháp đời 36 Lâm Tế Chánh Tông, thế hệ thứ 3 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Đến tháng 3, ngài đến chùa Bảo Lâm thọ cụ túc giới với Thiền sư Hải Điện. Từ đó, ngài tinh cần tu học nên bổn sư hài lòng phú pháp hiệu là Diệu Nghiêm.

            Trên phương diện hành trì, thiền sư siêng năng tụng chú Đại bi, và hành trì kinh Hoa Nghiêm, xem kinh thơ, đọc giải thuyết Tam Tạng… tổ giữ chức Tri tạng tại bổn tự 5 năm. Sau đó, thiền sư nhận lời mời của ông Tang Chánh Niệm đến Tuy La Lâm giảng thuyết kinh Địa Tạng Quy Nguyên, ở đây 3 tuần lễ thiền sư giáo hóa số người quy kính Tam bảo hơn 100 người.

            Thiền sư cùng với Thiền sư Bảo Viên – Thần Thông khắc bản công cứ đại trường kinh Di Đà và 10 tập Liên Hoa Thăng Duyên giáo hóa quy Tịnh độ, kết thiện duyên quy Tịnh độ hơn 30 người. Khi vào Quy Nhơn, thiền sư đến chùa Linh Phong xứ Dũng Tuyền, cất riêng am để tả kinh Pháp Hoa bằng chữ vàng một bộ, kinh Kim Cang Hồng Danh mỗi thứ một quyển, lấy máu tả một bộ kinh Pháp Hoa, lấy mực viết một tiểu bổn cộng tất cả là 10 bộ, Tam thiên kinh 5 bộ. Cứ như thế hằng đêm, Tổ sư tọa thiền tụng kinh Pháp Hoa, ban ngày thì Tổ sư tả kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang.

            Năm Mậu Thân, thiền sư vào Phú Yên ngụ chùa Trùng Quang, huyện Sông Cầu, với Thiền sư Khánh Thông. Thời gian chưa bao lâu, Thiền sư Khánh Thông tịch, thiền sư đến chùa Bảo Sơn Thiên Hải, nay thuộc xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, thuyết Long Thư Tịnh độ một tuần lễ rồi trở về ở chùa Trùng Quang 2 năm…

            Tháng Giêng năm Tân Hợi (1791), Hòa thượng Bình An mời thiền sư đến chân núi Một, thuyết kinh Địa Tạng 5 ngày (địa phận thôn Hà Yến, xã An Thạch, huyện Tuy An). Sau đó, ngài đến am Khánh Sơn (phía Nam núi Chóp Chài) ngụ tại đây.

            Năm 1792, thiền sư về lại chùa Bảo Sơn Thiên Hải. Qua năm sau, tức là năm 1793, thiền sư được mời đến xứ Đồng Nai (gần chợ Đèo) thuyết kinh Bát Nhã. Thuyết kinh xong, thiền sư trở về lại Phú Yên. Trong dịp dạo đến xã Xuân Đài, núi Bạch Thạch, thấy nơi này nước chảy quanh phía trước, có núi bao bọc phía sau, đất bằng rộng rãi, bèn dựng thảo am ở đấy để dịch kinh Hoa Nghiêm. Đến tháng 2 nhuận năm Ất Mão (1795), thiền sư mời thập phương tăng đến thuyết kinh Địa Tạng 7 ngày. Ngày 21 tháng 7 Bính Thìn 1796, đệ tử am Khánh Sơn thỉnh thiền sư đến khai đàn thuyết giới và mời Thiền sư Hoa Nghiêm, Quang Huy, Đức Lâm, Thiên Mãn, Đại Chúng đến khai đàn. Tăng ni thọ giới 200 người và thuyết Địa Tạng kinh 10 ngày.

            Đến năm Đinh Tỵ (1797), thiền sư kiến lập chùa Từ Quang trên núi Bạch Thạch (Đá Trắng), thuộc thôn Cần Lương, xã An Dân, huyện Tuy An.

            Có thể nói, dấu chân hoằng hóa của Ngài đến đâu cũng đều thấm nhuần pháp vị. Và cũng từ đó, dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh mới thực sự bén rễ và phát triển mạnh tại tỉnh Phú Yên.

            Khi biết cơ duyên của mình ở chốn Ta bà đã trọn, Ngài nhóm họp đồ chúng và đọc kệ phú pháp rằng:

            – Lai nhi vị tăng lai

            Khứ nhi vị tằng khứ

            Khứ lai bổn như như

            Như như hoàn lại khứ

 

      Dịch nghĩa:

            – Đến mà chưa từng đến

            Đi mà chưa từng đi

            Đi đến vốn như vậy

            Như vầy lại đến đi.

            Ngài an nhiên thị tịch vào ngày 17 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1798), trụ thế 73 năm, trải qua 53 năm tu học và hoằng hóa. Sau khi thiền sư viên tịch, đệ tử trưởng tử của Ngài là Thiền sư Toàn Thể – Vi Lương – Linh Nguyên thừa kế nối truyền pháp phái.

            4. Tổ Toàn Thể – Vi Lương – Linh Nguyên (1765-1844), họ Nguyễn, sinh tháng 5 năm Ất Dậu (1765) tại tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Quang Thác, pháp danh Quảng Tích và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Thêm, pháp danh Toàn Mãn.

            Ngài xuất gia với Tổ Pháp Chuyên – Luật Truyền – Diệu Nghiêm nên được bổn sư ban cho pháp danh Toàn Thể, tự Vi Lương, hiệu Linh Nguyên, nối pháp đời 37 Lâm Tế Chánh Tông, thế hệ thứ 4 pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh. Trong hàng đệ tử đắc pháp, Ngài là người xuất sắc nhất nên được Tổ Pháp Chuyên – Luật Truyền – Diệu Nghiêm chọn làm trưởng pháp tử.

            Năm Mậu Ngọ (1798), Tổ Diệu Nghiêm viên tịch, Ngài được tông môn cung cử làm trú trì chùa Từ Quang, tiếp tục phát huy sự nghiệp bổn sư để lại.

            Năm Canh Ngọ (1810), thể theo lời yêu cầu của bổn đạo, Ngài ra Bình Định khai sơn chùa Long Tường tại thôn Lương Quang, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước. Từ đây, cuộc đời hành đạo của Ngài chia hai, lúc ở Phú Yên, khi ra Bình Định. Tại chùa Long Tường, thiền sư có hai đệ tử thừa kế là Chương Hương – Chí Thăng và Chương Tân – Tông Chí – Chánh Nhân. Ngài là người kiến văn quảng bác, tinh thông Phật lý nên tất cả các kinh sách của Tổ Diệu Nghiêm đều được Ngài khắc bản lưu truyền, cũng như hướng dẫn cho các thiền sư khác khắc kinh. Từ đó, phong trào học Phật phát triển mạnh toàn tỉnh Phú Yên và có ảnh hưởng rất lớn đến các tỉnh lân cận, nên thu hút chư tăng các nơi về tu học rất đông. Nhờ vậy mà chùa Từ Quang trở thành trung tâm đào tạo tăng tài cho tỉnh Phú Yên nói riêng và các tỉnh miền Trung nói chung từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX.

            Vào giờ mùi ngày mồng 3 tháng 3 năm Giáp Thìn (1844), Thiền sư Toàn Thể – Vi Lương – Linh Nguyên viên tịch, hưởng thọ 80 tuổi. Bảo tháp Ngài được môn đồ kiến lập tại chùa Từ Quang trên núi Bạch Thạch. Sau khi thiền sư viên tịch, đệ tử của Ngài là Chương Niệm – Tông Trực – Quảng Giác thừa kế nối truyền pháp phái.

            5. Tổ Sư Chương Niệm – Tông Trực – Quảng Giác (1808-1875), nối truyền pháp phái Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 38, thế hệ thứ 5 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

            Tổ trụ trì chùa Từ Quang năm 1844 cho đến ngày viện tịch, khai sáng chùa Thiên Trường, và chỉ có một môn đệ duy nhất đó là Thiền sư Huệ Viễn được thừa kế trú trì, nối truyền pháp phái.

            6. Tổ Sư Ấn Từ – Tổ Đức – Huệ Viễn, nối truyền pháp phái Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 39, thế hệ thứ 6 dòng Lâm Tế Chúc Thánh, thừa kế trú trì chùa Từ Quang – Đá Trắng, Phú Yên.

            Cuộc đời và sự hành đạo của tổ chưa bao lâu thì ngài viên tịch sớm. Từ khi Tổ Ấn Từ – Tổ Đức – Huệ Viễn viên tịch, chùa không có người thừa kế nên trong tông môn đã cung thỉnh Tổ Ấn Thiên – Tổ Hòa – Huệ Nhãn (1850-1888) là tổ thứ 3 của chùa Phước Sơn xã Xuân Sơn – Đồng Xuân từ năm 1874 cho đến ngày viên tịch, đồng thời kiêm nhiệm trú trì làm tổ thứ 5 của chùa Từ Quang. Trong thời gian kiêm nhiệm chùa Từ Quang, thiền sư vận động mở con đường vào chùa chiều ngang 3,50m, chiều dài độ 500m. Từ cổng chùa đến Quốc lộ I, đường dốc có độ chênh cao, lát đá tảng thu nhặt từ các vùng quanh chùa. Đó là công trình đòi hỏi đóng góp lớn lao, biểu hiện đức độ của bậc danh tăng mới thực hiện được.

            Ngoài việc mở đường nói trên, thời gian này, thiền sư còn đào tạo được danh tăng có tiếng tăm. Danh tăng đó là hoàng thân dòng Tuy Lý Vương, nhân vào Phú Yên tỵ nạn tại làng An Thổ, cách chùa Từ Quang không quá 3km. Ông hoàng này thường đến chùa thăm viếng và tìm hiểu Phật pháp. Qua 10 năm theo thầy học đạo, hoàng thân Nguyễn Phúc Ưng Đỗ đã thấm nhuần pháp Phật và xin xuất gia trở thành vị tỳ kheo, và được bổn sư Ấn Thiên – Tổ Hòa – Huệ Nhãn ban cho pháp danh là Chơn Tâm, tự Đạo Tánh, hiệu Pháp Thân.

            Ngày trở về Thuận Hóa, Thiền sư Pháp Thân lập ngôi tự viện, lấy hiệu là Phước Huệ (chữ Phước là chữ đầu hiệu chùa bổn sư trụ trì Phước Sơn và chữ Huệ là chữ đầu đạo hiệu của bổn sư Huệ Nhãn). Chùa Phước Huệ tọa lạc tại thôn Vĩ Dạ cách kinh thành Huế 5km, chùa này đến nay vẫn còn tồn tại.

            Sau ngày kiến tạo ngôi chùa Phước Huệ, Tỳ kheo Pháp Thân hằng năm thường cung thỉnh bổn sư Huệ Nhãn và các huynh đệ đồng môn ra Huế thăm chùa. Trong số đó có các vị Pháp Tạng, Pháp Lâm, Pháp Hỷ, Pháp Ngãi, Pháp Ngữ… Mỗi năm viếng thăm, Thiền sư Ấn Thiên – Tổ Hòa – Huệ Nhãn cùng các môn đồ ở lại vài ba tháng để hoằng truyền chánh pháp, làm rạng danh cho giới Tăng già Phú Yên.

            Có thể nói, Thiền sư Huệ Nhãn là danh tăng đức độ cao siêu, đương thời được chư sơn và tín đồ Phật tử trong tỉnh Phú Yên sùng kính mến mộ.

            Trong một lần ra kinh đô thuyết pháp, Thiền sư Ấn Thiên – Tổ Hòa – Huệ Nhãn bị đắm thuyền và viên tịch vào ngày 5 tháng 4 tại Bồng Sơn, Bình Định năm 1888.

            7. Tổ Sư Chơn Tín – Đạo Thành – Pháp Hỷ, sinh quán tại Phú Yên, nối truyền pháp phái dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40, thế hệ thứ 7 dòng Lâm Tế Chúc Thánh, đệ tử của Tổ Ấn Chánh – Tổ Tông – Huệ Minh. Tổ Huệ Minh là trụ trì Tổ đình Bảo Sơn thuộc xã An Thạch, huyện Tuy An. Thiền sư Pháp Hỷ nguyên là trụ trì Tổ đình Linh Sơn thuộc xã An Thạch, sau ngày Tổ Huệ Nhãn viên tịch, Hội đồng chư sơn tỉnh cung thỉnh Thiền sư Chơn Tín – Đạo Thành – Pháp Hỷ kiêm nhiệm trụ trì và là tổ đời thứ 6 Tổ đình Từ Quang. Thiền sư rất uyên thâm giáo lý Phật, tinh thông Nho giáo, là vị pháp sư nổi tiếng nhất thời bấy giờ, là thầy của nhiều vị hòa thượng hữu danh thuộc thế hệ kế thừa. Chính Hòa thượng Phước Huệ là trụ trì Tổ đình Thập Tháp Di Đà tại Bình Định nghe danh thiền sư, nên đã cùng với Thiền sư Phổ Huệ vào tham cứu 3 năm, đến khi xong bộ kinh Lăng Nghiêm trực chỉ mới trở lại Bình Định.

            Trong thời gian trụ trì tại Tổ đình Từ Quang, thiền sư đã khai giới đàn để truyền giới pháp cho chư giới tử từ Thừa Thiên trở vào. Số giới tử về thọ giới rất đông, đặc biệt có nhiều thiền sư sau này trở thành lãnh đạo cao cấp của giáo hội như Hòa thượng Tăng thống Thích Tịnh Khiết.

            Chính Thiền sư Chơn Tín – Đao Thành – Pháp Hỷ đã xây dựng Hòa thượng Phước Huệ trụ trì chùa Thập Tháp Di Đà ở Bình Định mà sau này thành Tăng cang Quốc sư. Thiền sư cũng đã ra Huế giảng kinh cho các lớp thiền sư ở chùa Trúc Lâm trong đó có Hòa thượng Viên Thành chùa Tra Am, bổn sư Hòa thượng Trí Phủ; Hòa thượng Tăng thống Tịnh Khiết, lớp thứ hai là Hòa thượng Mật Thể, Mật Nguyện, Mật Hiển, Trí Thủ, Phúc Hộ. Và lớp thứ ba có Thiền sư Thiện Hoa, Thiện Hòa, Trí Tịnh, Bát Nhã… Thiền sư còn giảng kinh cho cư sĩ Lê Đình Thám, cư sĩ Diệu Không và cho mẹ vua Bảo Đại nữa.

            Sau khi Tổ Chơn Tín – Đạo Thành – Pháp Hỷ viên tịch, thừa kế trụ trì Tổ đình Từ Quang là đệ thất tổ húy Chơn Thật, tự Đạo Thông, hiệu Pháp Ngãi.

            Tổ sư Chơn Thật – Đạo Thông – Pháp Ngãi, nối truyền pháp dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40, thế hệ thứ 7 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

            Tổ sinh quán tại Phú Yên, là đệ tử của Tổ sư thượng Ấn hạ Thiên, tự Tổ Hòa, hiệu Huệ Nhãn là một vị danh tăng thời bấy giờ, các huynh đệ đồng môn của ngài là Chơn Kiêm – Pháp Lâm, Pháp Tạng, Pháp Hỷ, Pháp Ngữ. Khi thừa kế trụ trì, tổ đã thực hiện theo phương châm của Tổ Bách Trượng: – Nhất nhựt bất tác, nhất nhật bất thực. Vì thế, tổ đã thành lập nông thiền tại tổ đình, nhưng tổ đã viên tịch sớm nên công trình dang dở.

            8. Tổ Sư Như Hương – Hòa Quang – Hòa Phước, trú trì chùa Thiên Long, nối truyền pháp phái Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41, thế hệ thứ 8 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

            Chiến tranh, bom đạn tàn phá những ngôi chùa nên khi nói về Thiền sư Như Hương – Hòa Quang, ta không biết chính xác năm sanh, năm tịch vào năm nào, và đã có những liên hệ sư đồ như thế nào với Tổ sư Chơn Thật – Đạo Thông – Pháp Ngãi, nhưng căn cứ vào 3 linh vị đang thờ tại Tổ đình Pháp Hội, Bình Thuận, đó là linh vị của 3 thiền tổ có ghi:

            * Lâm Tế Chánh tông đời 40 Chơn Thật – Đạo Thông – Pháp Ngãi Hòa thượng.

            * Lâm Tế Chánh tông đời 41 Như Hương – Hòa Quang Hòa thượng.

            * Lâm Thế Chánh tông đời 42 Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ Hòa thượng.

            Theo linh vị thờ tại chùa Pháp Hội thì nối truyền pháp phái Lâm Tế Chánh Tông đời 40, thế hệ thứ 7 dòng Lâm Tế Chúc Thánh là Tổ Chơn Thật – Đạo Thông – Pháp Ngãi; Lâm Tế Chánh Tông đời 41, thế hệ thứ 7 dòng Lâm Tế Chúc Thánh là Thiền sư Như Hương – Hòa Quang, và Lâm Tế Chánh Tông đời 42, thế hệ thứ 8 dòng Lâm Tế Chúc Thánh là Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ. Trong khi trong tiểu sử của Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ nối truyền pháp phái Lâm Tế Chánh Tông đời 42 thì nói bổn sư là Thích Hòa Phước. Như vậy, không biết Thiền sư Như Hương – Hòa Quang và Thiền sư Thích Hòa Phước là hai người khác nhau hay là một người: Như Hương – Hòa Quang – Hòa Phước?

            Qua linh vị thờ tại Tổ đình Pháp Hội, ta suy đoán là Tổ Như Hương – Hòa Quang và Thiền sư Hòa Phước là một người. Bởi lẽ, khi Ngài trú trì chùa Thiên Long, lúc đó đã quy y cho cụ bà Võ Thị Biểu và ban cho pháp danh Thị Bửu là thân mẫu của chú bé Bùi Vạn An. Sau đó, ngài Ngài đã thế phát xuất gia cho chú bé Bùi Vạn An lúc đó mới 7 tuổi và ban cho pháp danh là Thị Lạc, tự là Hành Thiện, hiệu là Hưng Từ (1911-1991). Sau này là thiền sư có danh tiếng Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ, và cũng là người khai sáng Tổ đình Pháp Hội, Bình Thuận ngày nay.

            Ngài Thị Lạc và những đóng góp cho dân tộc & đạo pháp

            Trong suốt cuộc đời tu học và hành đạo, ngài Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ không từ nan bất cứ nhiệm vụ nào khi được chư Tăng và Giáo hội giao phó cũng như Phật tử cần đến. Đối với dân tộc, ngài luôn đem hết sức mình góp phần vào công cuộc bảo vệ quê hương. Theo nhà viết sử Phật giáo triều Nguyễn cho rằng:

            – Một cảnh tượng suy thoái, một giai đoạn không mấy vẻ vang khi nhìn chung đạo pháp, nhưng riêng ở Phú Yên xuất hiện rất nhiều danh tăng hoằng hóa trong tỉnh và thành đạt chứng quả ở nhiều địa phương khác… Khách quan mà nhìn nhận, ta có thể nói đây là thời kỳ có được những bước tiến khá dài trong lịch sử Phật giáo trước đây.

            Từ khi Hội An Nam Phật học và hội Phật học Trung Việt ra đời vào năm 1932 thì ở Phú Yên, Hội Phật học cũng được thành lập mà thành phần của Hội là thẩm phán Trần Kỳ Quỳ, quê ở xã An Dân và bác sĩ Lê Văn Kỷ, quê ở Sông Cầu. Các cố vấn của Hội Phật học Phú Yên là Thiền sư Thiền Phương (chùa Phước Sơn – Đồng Tròn) và Thiền sư Phúc Hộ (chùa Từ Quang).

            Sau năm 1932, Tuần vũ Tôn Thất Toại chịu ảnh hưởng về cách tổ chức Phật giáo ở Huế – Thừa Thiên nên mời chư tăng thành lập Giáo hội Tăng già Phú Yên mà Tòng lâm Pháp chủ là Hòa thượng Pháp Ngữ, huynh đệ đồng môn với Thiền sư Chơn Thật – Đạo Thông – Pháp Ngãi, chùa Từ Quang (Đá Trắng), ở Tuy An.

            Đến năm 1945, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Phú Yên ra đời mà Ban chấp hành lâm thời có ông Nguyễn Thọ Dực, nguyên là quyền Tri phủ Tuy Hòa. Tháng 3 năm 1946, Ban chấp hành chính thức gồm:

            – Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ là Chủ tịch và Cư sĩ Nguyễn Nguyên Huân – Phó Chủ tịch.

            Từ đó trở đi, thiền sư dấn thân hành đạo:

            – Năm 1955, ngài đảm nhận chức vụ Tri sự trưởng Giáo hội Tăng già tỉnh Khánh Hòa liên tiếp trong hai nhiệm kỳ.

            – Năm 1963-1964, ngài lãnh đạo phong trào đấu tranh bảo vệ Phật giáo và dân tộc tỉnh Bình Tuy (Hàm Tân).

            – Năm 1964-1978, ngài được Hội đồng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất suy tôn vào Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống.

            – Từ năm 1982 cho đến ngày viên tịch, ngài được suy tôn Cố vấn Chứng minh kiêm Ủy viên Tăng sự Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Thuận Hải (cũ) cũng chính là tên gọi tỉnh Bình Thuận trước kia và sau này, và là thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

            Với đức độ, tài năng và uy tín của Ngài, nhất là ảnh hưởng từ lúc Ngài tham gia vào phong trào kháng chiến chống Pháp, sau nầy có một hòa thượng đã sử dụng tên và uy tín của ngài để hoạt động cho phong trào chống Mỹ cứu nước. Chính vì vậy mà Ngài đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì và phát triển Phật sự tại Linh Sơn Tự, Lạc Tánh, Tánh Linh và Linh Sơn Trường Thọ Tự, núi Trà Cú, Bình Thuận.

            Ngài đã có công dịch bộ kinh Thập Lục Quán và trước tác quyền Lịch sử Tổ Hữu Đức (Tổ Linh Sơn Trường thọ, núi Tà Cú) và Chư hậu Tổ. Đặc biệt, ngài đã sáng tác ra nhiều liễn đối, hiện nay nhiều tự viện còn lưu lại bút tích một thời vang bóng giới đức và trí đức trang nghiêm của ngài.

            Ngài Thị Lạc trên đường hành đạo

            Là đệ tam tổ chùa Minh Sơn, trong thời gian trú trì, Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ khởi công trùng tu Tổ đình Minh Sơn (1957) và chùa Linh Đài (1959) cho đến năm 1962 mới khánh thành chùa mái ngói vách gạch. Theo Nguyễn Đình Chúc và Huệ Nguyễn thì:

            – Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ có một cách truyền thừa hơi khác. Thiền sư truyền hiền chứ không truyền cho đệ tử. Sư Tâm Thủy, đệ tử của Thiền sư Vạn Ân, nhận chùa Minh Sơn. Sư Quảng Vân, đệ tử của sư Trí Giác, nhận chùa Pháp Hội ở Bình Tuy là hai ví dụ cụ thể trong đời của Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ.

            Sau đó, thiền sư vân du hoằng hóa ở phương Nam. Những địa phương thiền sư đã đặt chân tới như Khánh Hòa, Ninh Thuận, rồi đến núi Trà Bang – làng Bình An – Phú Quý – Phan Rang. Sau đó, thiền sư đến vùng Vĩnh Hảo để hoằng dương Phật pháp ở vùng Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết, Bào Trâm gần mũi Kê Gà, rồi Hàm Tân, Bình Tuy, Bình Thuận… hoằng dương Phật pháp.

            Có thể nói những nơi trước đây Tổ Bảo Tạng đã từng đi qua, thì sau này Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ cũng đặt chân đến. Quả thật, như nói về việc Thiền sư Bảo Tạng tìm được đường ngầm vào núi Trà Cú, gần Hàm Tân, Bình Thuận, nơi có nhiều long mạch và vào đó tu hành sau nầy được gọi là Hang Tổ. Sau đó, Thiền sử Bảo Tạng rời Hang Tổ vân du hoằng hóa, thì Thiền sư Thông Ân – Hữu Đức vào ẩn tu trong Hang Tổ.

            Tương truyền, Thiền sư Hữu Đức cảm hóa được thú dữ, khi thiền định có hai con cọp hầu bên cạnh. Ngài tu thiền, chỉ ăn rau rừng uống nước suối. Khi ra khỏi hang thì tóc râu dài. Nhiều người chí tâm muốn đến cầu học thì được cọp dẫn đường. Số người đến thăm viếng càng đông, họ cất am tranh ở gần Hang Tổ để thiền sư tu hành, sau này các đệ tử xây dựng thành chùa Linh Sơn Trường Thọ, và trải qua nhiều thay đổi của thời gian, chùa nhiều lần trùng tu nên mới được như ngày nay.

            Thừa kể Tổ Thông Ân – Hữu Đức là Thiền sư Vĩnh Thọ, ngày xưa là học viên của Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ, sau khi công trình tạc tượng Bổn sư Niết bàn dài 49 m còn chưa hoàn chỉnh thì cuộc chiến tại miền Nam trở nên khốc liệt, và Thiền sư Vĩnh Thọ phải đi lánh nạn nhiều nơi, cho nên chùa Linh Sơn Trường Thọ lúc này chỉ nhờ vào sự trông nom của Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ.

            Mặc dầu trong năm 1961, Thiền sư Hưng Từ đã xây dựng Linh Sơn Tự, Lạc Tánh, Tánh Linh, nhưng vì phải trông nom chùa Linh Sơn Trường Thọ, núi Trà Cú, cho nên thiền sư đã uỷ nhiệm cho đệ tử là Hòa thượng Thích Đồng Hương trụ trì. Bản thân thiền sư và một số đệ tử của Ngài phải cư trú tại chùa Linh Sơn Pháp Bửu Đường, Hàm Tân, Bình Tuy, để tiện việc trông nom Phật sự của chùa Linh Sơn Trường Thọ, núi Trà Cú.

            Năm 1967, thiền sư đề cử Ni trưởng Bổn Đại làm trú trì và khai sơn Tổ đình Pháp Hội, Bình Thuận.

            Nhìn chung, công việc hoằng pháp tại tỉnh Bình Thuận, kể từ khi các thiền sư: Thích Hoằng Phúc, Thích Quảng Hưng, Thích Hưng Từ đến hoằng pháp thì dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh phát triển mạnh. Tuy nhiên, chỉ có sự truyền thừa của Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ là sâu rộng hơn cả.

            Ngài Thị Lạc xả bỏ báo thân

            Dù tuổi già sức yếu, nhưng ngài Thị Lạc vẫn tinh tấn tu hành không một phút giây trễ nải và phục vụ chúng sanh đến giây phút cuối cùng. Ngày mồng 02 tháng 8 năm Tân Mùi (1991), Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ đã an nhiên thị tịch, trụ thế 81 tuổi với 61 hạ lạp. Môn đồ xây thờ Bảo tháp của ngài trong khuôn viên chùa Pháp Hội, thuộc huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.

            Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Việt Nam đã trọn đời lo cho Phật pháp và đặc biệt là ngài chú trọng đến việc tiếp Tăng độ chúng. Cuộc đời tu hành và hóa đạo của thiền sư là tấm gương hy sinh tận tụy, không từ nan bất cứ công việc gì dù nhỏ, đem hết sức mình để giáo huấn Tăng, tín đồ Phật tử. Với đức tính khiêm cung hiếu hạnh và mô phạm cao cả của ngài là thân giáo quan trọng đã tác thành nên những đệ tử hữu danh trong giáo hội.

                                         *******

            Nhận xét về cuộc đời và sự nghiệp hoằng pháp của Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ, Hòa thượng Thích Huệ Đăng đã viết:

            Thiền sư tuy là sinh quán ở Phú Yên, nhưng lại là vị thượng thủ đầu tiên của Giáo hội Tăng già tỉnh Khánh Hòa, do chư Tôn đức Tăng cung thỉnh suốt 2 nhiệm kỳ. Vào thời kỳ đó chưa có một vị Hòa thượng nào trong tỉnh được vinh dự như vậy. Nhớ kỳ chấn hưng, thiền sư đã kế tục các vị Hòa thượng tiền bối, ra sức cổ xúy phong trào đổi mới, động viên hướng dẫn chư Tăng trong sự nghiệp tinh tấn tu học và hoằng dương Phật pháp.

            Thiền sư thường nhắc nhở chư Tăng:

            – Phật Pháp nhị bửu, Nhi tại Tăng hoằng.

    Nghĩa là:

            – Phật, Pháp là hai ngôi báu, nhưng nhờ chư Tăng truyền mở.

    Hay câu:

            – Nhơn năng hành đạo, Phi đạo hằng nhơn.

    Nghĩa là:

            – Con người hay truyền mở đạo pháp, chẳng phải đạo pháp truyền mở cho người.

            Kể từ khi thiền sư vào quận Ninh Hòa, trú trì Tổ đình Sắc tứ Thiên Tứ, chùa Kim Long (Ninh Hòa) rồi khai đàn truyền giới làm Hòa thượng Đàn đầu, rồi sau đó làm vị Thượng thủ Giáo hội Tăng già Khánh Hòa, tiếp theo nhiều năm làm Phật sự 2 tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên, kế đến thiền sư vào Bình Thuận và Bình Tuy, khai sơn 2 chùa Linh Sơn và Pháp Hội cho đến ngày già yếu từ biệt cõi Ta bà về Tịnh độ, ngài luôn luôn lấy việc giáo dục, sách tấn chư Tăng làm công việc chính.

            Thiền sư là một người uyên bác về nội điển, về Hán học, đặc biệt nhất là về Mật tông. Từ đăng đàn thuyết pháp, giải giảng kinh, luật, luận đến đăng đàn Chấn Tế Du già, Mông Sơn, Ứng phú khoa nghi, Thanh quy tiết thứ, Thiền môn chánh độ, thiền đường quy củ, Đại học hằng giới, Nhẫn đến môn công vụ, Chấp tác hành trì bất cứ phương diện nào, thiền sư cũng thông suốt sự lý và hành trì rất hay.

            Phàm vị Tăng có duyên được nghe thiền sư giảng kinh thuyết pháp, chẩn tế, ứng cúng các khoa nghi đều hết sức hoan hỷ và khâm phục tài năng uyên bác của ngài. Thiền sư lại từ bi lân mẫn thương mến chư Tăng, Ni, không phân biệt tuổi tác, địa phương, hoàn cảnh hành đạo, hễ có người nào cần, thiền sư đều hoan hỷ dạy bảo, hướng dẫn sách tấn với tất cả tấm lòng khoan dung, nhân từ, cần mẫn hết sức chỉ dẫn đến nơi đến chốn.

            Vì vậy, đa số chư Tăng ở 3 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận đều tôn kính ngài, thương mến ngài như vị cha lành. Thiền sư là vị Tôn sư được nhiều chư tôn thượng tọa, đại đức cầu pháp và trong số những vị cầu pháp với thiền sư ngày trước, hiện nay đã được chư Tăng tôn vinh hay Giáo hội tấn phong Hòa thượng. Đây là niềm vui cao quý của chư Tăng, niềm vinh dự tự hào của hàng tín đồ Phật tử và cũng là công đức giáo dưỡng vô cùng to lớn của Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ.

            Kết luận

            Kể từ khi Tổ sư Minh Hải khai sơn xuất kệ truyền thừa, Thiền phái Chúc Thánh đã trải qua trên 300 năm hình thành và phát triển. Trong suốt chuỗi thời gian song hành cùng dân tộc, các thiền sư thuộc Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đã đem ý chỉ của chư Tổ truyền bá khắp mọi nơi và đóng góp vào lịch sử Phật giáo Việt Nam những trang sử vàng son châu ngọc.

            Với tư tưởng phóng khoáng của tông Lâm Tế, cộng với nếp sống giản dị, thanh cao, các thiền sư dòng Lâm Tế Chúc Thánh gần gũi với mọi người dân nên dễ dàng tiếp cận đi sâu vào lòng quần chúng.

            Tôn chỉ “Hộ quốc an dân” xuyên suốt trong lịch sử 2.000 năm Phật giáo truyền đạo trên đất Việt. Tôn chỉ của Thiền phái Chúc Thánh cũng không ra ngoài nguyên tắc bất di bất dịch ấy. Vì thế, ngay từ những ngày đầu truyền pháp, Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo cũng đã phần nào khẳng định tôn chỉ ấy qua hai câu kệ sau:

            – Chúc thánh thọ thiên cửu

            Kỳ quốc tộ địa trường.

    Nghĩa là:

            – Chúc thánh quân sống lâu

            Cầu vận nước vững bền.

            Sự khẳng định nầy, chúng ta thấy có sự gắn liền giữa Đạo pháp và Dân tộc. Đây chính là chất liệu kết nối Tăng sĩ với các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, công, hầu, khanh, tướng. Đó là lý do giải thích tại sao tinh thần của đạo Phật dễ dàng đi sâu vào quần chúng.

            Với tư tưởng thông thoáng như thế, các thiền sư dòng Lâm Tế Chúc Thánh có pháp môn tu phù hợp với điều kiện xã hội. Sự vận dụng kết hợp Thiền -Tịnh song tu đã đem lại sự lợi lạc cho hành giả và tha nhân. Về tự thân, các thiền sư đạt được sự an lạc do thiền định đem lại, thân tâm an lạc, nội lực tăng trưởng nên thấy rõ thật tướng của mọi sự, mọi việc. Với pháp môn Tịnh độ, các Ngài đã giúp cho dân chúng ổn định tinh thần, có một niềm tin hướng về Tam bảo.

            Ngoài việc tu hành chứng ngộ tâm linh, các thiền sư dòng Chúc Thánh chủ trương nhập thế tích cực với tinh thần vô nhiễm. Điều này được thể hiện qua cuộc đời của Thiền sư Pháp Liêm, thế hệ thứ 3 dòng Chúc Thánh. Sau khi xuất gia, Ngài về quê đăng lính đánh giặc lập nhiều công to được phong chức chỉ huy. Nhưng Ngài từ bỏ tất cả, phát nguyện quét chợ Hội An suốt 20 năm. Về sau, Ngài được triều đình và dân chúng suy tôn hiệu là Minh Giác Thiền sư, thỉnh về kế nghiệp trụ trì Tổ đình Phước Lâm.

            Tiếp nối gương của bậc cổ đức, các thế hệ tăng đồ dòng Chúc Thánh luôn nhiệt tâm tham gia vào các phong trào cứu quốc, đấu tranh đòi độc lập cho Tổ quốc và tự do cho dân tộc, mà qua đó, tiêu biểu là Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiền – Hưng Từ trong vai trò chủ tịch trong những năm tham gia hoạt động kháng chiến chống Pháp cứu nước. Sau 1945, thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã qua, hòa bình trở về với đất nước, ngài trở lại chùa trong vai trò của một thiền sư tiếp tăng độ chúng, không màng đến thế sự.

            Nhìn một một cách xuyên suốt, tôn chỉ và mục đích hành đạo của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh kể từ ngày Tổ sư Minh Hải khai sơn cho đến nay vẫn không thay đổi. Nhập thế tích cực cứu đời, nhưng vẫn thong dong tự tại trước mọi lợi danh. Tùy duyên hành đạo và bất biến giữ đạo luôn được áp dụng tùy từng hoàn cảnh đã thể hiện được bản hoài của người con Phật.

            Với những nguyên nhân trên, cho nên dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh nhanh chóng phát triển rộng khắp không chỉ trong nước mà còn phát triển mạnh tại các nước ở châu Mỹ, châu Âu, châu Úc, châu Phi…

            TÀI LIỆU THAM KHẢO

      – Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, Thích Mật Thể.

      – Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang, NXB Lá Bối

      – Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng, Thích Thanh Từ, NXB Phật Học Viện Quốc Tế, Hoa Kỳ.

      – Thiền Học Việt Nam, Nguyễn Đăng Thục, NXB Phật Học Viện Quốc Tế, Hoa Kỳ.

      – Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ, NXB Thành Hội Phật Giáo TP Hồ Chí Minh

      – Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc, NXB Phú Lâu Na Tùng Thư.