1. Dẫn nhập
Chùa Bách Môn (Linh Cảm tự) là một ngôi chùa nằm trên núi Khám Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ngôi chùa được biết đến với lối kiến trúc độc đáo hiếm có. Tuy nhiên ngôi chùa này đã bị phá hủy hoàn toàn trong kháng chiến chống Pháp. Dựa trên những dữ liệu thu thập được, bài viết phân tích, đánh giá những đặc điểm kiến trúc và những giá trị nổi bật của ngôi chùa có một không hai này.
2. Lịch sử hình thành và phát triển
Chùa Linh Cảm (tên gọi ban đầu của chùa Bách Môn) là ngôi chùa được khởi dựng từ thời nhà Lý. Theo sử sách, ngôi chùa này được vua Lý Thần Tông sắc lập vào năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 (1136), sau khi ông được Minh Không Thiền Sư chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo131. Tới tháng 9 năm 1137, khi mở hội khánh thành chùa Linh Cảm, người có tội trong nước được tha132. Trong bối cảnh hàng trăm ngôi chùa được xây dựng ở khắp nơi trên toàn quốc vào thời Lý, sự kiện này cho thấy chùa Linh Cảm đã từng có vai trò rất quan trọng và được đánh giá khá cao. Có lẽ vì lý do này mà về sau ngôi chùa này đã được trùng tu nhiều lần với sự đóng góp tiền của những người ở tầng lớp cao trong xã hội, đặc biệt là vào thời nhà Mạc, khi phong trào phục hưng Phật giáo diễn ra mạnh mẽ. Theo tư liệu văn bia thời Mạc và những dữ liệu lịch sử khác, đã có nhiều sự kiện đáng chú ý liên quan đến chùa Linh Cảm trong thời kỳ này:
– Vào năm 1556, chùa được Đông Khê hầu họ Vũ và Tham tri hoàng thành trị sự họ Bùi bỏ tiền trùng tu133; – Năm 1557, chùa được đương kim hoàng thượng Mạc Phúc Nguyên ban “cấm tiền”134; – Cũng vào năm 1557, trong số trên 15 ngôi chùa ở khu vực Dương Kinh và phụ cận được Thái Hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn công đức 6000 lá vàng cùng nhiều tiền bạc để xây dựng và trùng tu ở nửa sau thế kỷ XVI, chùa Linh Cảm là ngôi chùa được thụ hưởng đầu tiên135; – Năm Hoằng định thứ 12 (1612) chùa Linh Cảm được đại trùng tu theo qui cách cũ136;
Cho đến nay chưa tìm được ghi chép cụ thể nào để chúng ta có thể hình dung ngôi chùa Linh Cảm có hình thức như thế nào từ khoảng giữa thế kỷ XVIII trở về trước.
Thời chúa Trịnh Sâm (1767-1782), chùa Linh Cảm được bà Chúa Chè – Tuyên phi Ðặng Thị Huệ lựa chọn làm nơi ăn chay cầu nguyện, tìm sự yên tĩnh nơi cửa thiền sau khi bị thất sủng. Bà đã cho sửa sang, kiến thiết chùa thành một công trình đồ sộ với đủ cả bốn phương tám hướng và có tới 100 cửa để tu tâm tích đức137. Chắc hẳn tên gọi “Bách Môn” của chùa cũng được bắt đầu vào thời kỳ này và dần trở nên phổ biến trong dân gian.
Dù đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau, nhưng những dữ liệu trên cho thấy vị thế quan trọng trong lịch sử của chùa Linh Cảm – Bách Môn trong đời sống tâm linh của nước ta. Tiếc rằng trong thời kháng chiến chống Pháp, ngôi chùa với kiến trúc độc đáo này đã bị phá hủy hoàn toàn.
3. Vị trí và mối quan hệ của chùa Bách Môn với các ngôi chùa thời Lý xung quanh
Chùa Bách Môn nằm trên lưng chừng núi Khám Sơn, thuộc làng Long Khám, xã Việt Đoàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Đáng chú ý là so với những danh lam cổ tự thời Lý ở phủ Thiên Đức và khu vực lân cận, chùa Bách Môn có vị trí trung tâm. Cụ thể, ở phía tây nam của Bách Môn là chùa Phật Tích, phía tây bắc là chùa Tiêu, phía đông bắc là chùa Dạm, và phía đông nam là chùa Tĩnh Lự (Hình 1). Đặc điểm chung của tất cả các ngôi chùa này là đều nằm trên sườn núi và có hướng nhìn thoáng đãng ra xung quanh. Vị trí trung tâm của Bách Môn so với 4 ngôi chùa trên núi làm ta liên tưởng đến bố cục cân xứng của nó với 1 tháp cao nhất ở chính giữa và 4 tháp thấp hơn ở 4 góc. Phải chăng khi kiến thiết lại chùa Linh Cảm vào thời chúa Trịnh Sâm cuối thế kỷ 18, “người thiết kế” đã lấy ý tưởng từ chính vị trí trung tâm của chùa so với các ngôi chùa khác trong khu vực?
Về hướng chính của chùa Bách Môn, nghiên cứu hồi cố của Nguyễn Đỗ Bảo và Nguyễn Bá Vân năm 1969 cho thấy, hướng chính của chùa là hướng tây, tức là hướng vuông góc với trục thang lên chùa138. Điều này có vẻ hơi lạ nếu so sánh với các chùa trên núi khác ở phủ Thiên Đức. Tuy nhiên, điều thú vị là đây cũng chính là hướng nhìn về phía làng Đình Bảng, nơi có đền Lý Bát Đế (Cổ Pháp) – được coi là nơi phát tích của nhà Lý (Hình 1). Rất có thể việc quay hướng tây như vậy là hoàn toàn có chủ ý khi dựng chùa, và cũng không loại trừ khả năng việc định hướng này đã có ngay từ khi dựng chùa Linh Cảm vào thời Lý. Nếu đúng vậy thì đây lại là một đặc điểm riêng có của chùa Bách Môn so với các ngôi chùa thời Lý khác. Đáng chú ý là theo GS. Trần Lâm Biền, cùng với hướng nam, hướng tây là hướng phổ biến nhất của chùa Việt, bởi “đây là một hướng ổn định nhất vì hợp với sự vận hành của âm dương, khiến cho thần linh không rời bỏ nghĩa vụ vì chúng sinh đau khổ”139.
4. Đặc điểm kiến trúc
Theo Gia Lộc, bố cục phổ biến nhất của chùa Việt có dạng chữ công (工). Loại bố cục này phù hợp với phần lớn chùa có quy mô trung bình và lớn. Một số chùa lớn hơn có bố cục hình chữ tam (三) hay nội công ngoại quốc. Các chùa nhỏ thì thường có bố cục hình chữ đinh (丁)140. Trong khi đó theo bản vẽ hồi cố của Nguyễn Đỗ Bảo và Nguyễn Bá Vân, chùa Bách Môn có bố cục mặt bằng hình vuông chữ điền (田) có 2 trục đối xứng và có hành lang/hiên bao quanh 4 phía141. Rõ ràng đây là bố cục rất đặc biệt riêng có của chùa Bách Môn, và bố cục này cũng làm Bách Môn trở nên “bề thế” hơn rất nhiều so với quy mô tương đối “khiêm tốn” của nó: 26 x 26m trên mặt bằng. Nhận xét về ngôi chùa này, Trần Trọng Kim cho rằng đây “thật là một kiểu chùa ít có ở nước Nam”142
Bố cục này làm chùa mở ra 4 hướng như nhau, hướng nào cũng có tượng thờ khiến một số người trước đây đến thăm chùa nhầm lẫn cho rằng chùa này có “4 tòa tam bảo”. Thực chất theo bản vẽ hồi cố và theo sách Phật lục của Trần Trọng Kim, chùa Bách Môn chỉ có 1 tòa tam bảo duy nhất (quay về hướng tây) với nhiều lớp tượng thờ. Hướng bắc và nam cũng có tượng thờ nhưng ít hơn. Còn hướng đông là điện thờ mẫu với chỉ 2 lớp tượng: trên là Tam thế và dưới là Tam tòa Thánh mẫu143. Nhà tổ được bố trí tách riêng phía sau chùa (hướng đông) qua một khoảng sân nhỏ.
Việc để mặt chính của chùa quay về hướng tây giúp tạo ra được một khoảng sân rộng phía trước tòa tam bảo. Đây là điều không thể có được nếu chùa quay mặt chính về hướng nam, bởi độ sâu khá nhỏ của dải đất dựng chùa (Bức ảnh cũ chụp chùa từ phía dưới bậc thang cho thấy, mặt đứng hướng nam của chùa nằm rất gần bậc thang trên cùng). Tuy nhiên do chùa có 4 mặt như nhau nên khi di chuyển theo các bậc thang lên chùa, khách viếng thăm chắc hẳn không bị cảm giác là đang tiếp cận “mặt bên” của chùa (Hình 3).
Phân tích các bản vẽ của Nguyễn Đỗ Bảo và Nguyễn Bá Vân và quan sát những bức ảnh cũ còn cho phép đưa ra các nhận định sau về kiến trúc chùa Bách Môn:
– Không gian chùa cũng được phân theo gian theo lối truyền thống. Tuy nhiên bộ vì nóc thay vì liên kết với hệ cột đỡ bằng gỗ thì lại gối lên tường và trụ gạch (cột hiên) được xây đơn giản nhưng chắc chắn. Gỗ làm vì nóc được xác định là gỗ dổi. Tiếc rằng cấu trúc và hình thức của bộ vì nóc đã không được xác định cụ thể.
– Các mặt đứng của chùa Bách Môn có bố cục đối xứng tuyệt đối với điểm nhấn chính là tháp trung tâm (cao nhất) và điểm nhấn phụ là 2 tháp 2 bên. Tỷ lệ giữa khối nằm ngang (bái đường) với các khối tháp phát triển theo phương đứng rất hợp lý. Chiều cao của các tháp vừa đủ để không tạo ra tranh chấp. Có lẽ bởi vậy mà dù kiến trúc chùa Bách Môn rất khác so với các ngôi chùa Việt khác nhưng vẫn cảm nhận được sự gần gũi và thân thuộc (Hình 4).
– 4 tháp ở 4 góc chùa cũng chính là gác chuông, gác trống, gác khánh và gác mõ. Chuông, trống, khánh, mõ là những khí cụ được sử dụng phổ biến trong các nghi lễ của Phật Giáo. Tuy nhiên, thông thường chùa chỉ có gác chuông (nếu là 1 gác) hoặc gác chuông và gác khánh (nếu có 2 gác). Trường hợp có tận 4 gác treo 4 khí cụ khác nhau thì có lẽ chùa Bách Môn là duy nhất.
– Nếu hiểu “môn” là “cửa” thì Bách Môn chỉ có 20 cửa ở 4 mặt ngoài ngôi chùa. Tuy nhiên theo Từ điển Hán Nôm, “môn” còn có nghĩa là “lối ra vào”144. Hiểu theo cách này thì chùa Bách Môn có đúng 100 lối ra vào, kể cả các lối đi luồn dưới bệ thờ.
– Trong chùa có 4 sân nhỏ ở 4 góc, nơi trồng một số cây cảnh như ngâu, láng, ngọc lan… Các sân trong này làm phong phú thêm cho cấu trúc không gian chùa, giúp lưu thông không khí hiệu quả và gia tăng chiếu sáng tự nhiên cho các không gian bên trong. Và dù có kích thước không lớn nhưng sự góp mặt của chúng cũng tạo ra những không gian thư giãn thú vị cho khách viếng thăm chùa.
5. Những giá trị của chùa Bách Môn
Những phân tích và so sánh trên đây cho thấy chùa Bách Môn có nhiều giá trị nổi bật đáng chú ý, đó là:
– Giá trị lịch sử: Chùa Bách Môn (Linh Cảm tự) là ngôi chùa có lịch sử hình thành từ rất lâu đời, lên tới gần 900 năm. Tuy không được nhắc đến nhiều trong sử sách nhưng những sự kiện gắn liền với nó như đã chỉ ra trên đây cho thấy ngôi chùa này đã từng có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh nước Việt. Không phải vô cớ mà khi xem xét cách bài trí tượng thờ trong chùa ở Bắc Kỳ, Trần Trọng Kim đã lựa chọn Bách Môn là 1 trong số 10 chùa lớn để mô tả145. Bên cạnh ý nghĩa về mặt tâm linh, chùa Bách Môn còn là di tích lịch sử cách mạng do đã được sử dụng làm cơ sở đào tạo cán bộ của Ðảng Lao động Việt Nam trước năm 1945146.
– Giá trị kiến trúc: Với bố cục độc đáo riêng có, chùa Bách Môn xứng đáng là một “bông hoa” đẹp của kiến trúc Phật giáo Việt. Sự đột phá về mặt kiến trúc của nó đã phá vỡ lối mòn trong quan niệm về hình thức mà một ngôi chùa cần phải có. Và đáng chú ý là dù khác tất cả những ngôi chùa khác, nhưng hình thức của chùa Bách Môn vẫn mang tinh thần Việt rất rõ rệt. Từ giác độ này, kiến trúc chùa Bách Môn có thể tiếp tục truyền cảm hứng cho thế hệ kiến trúc sư hiện tại và tương lai khi sáng tác những ngôi chùa mới.
– Giá trị cảnh quan: Bên cạnh những giá trị lịch sử và kiến trúc, chùa Bách Môn còn có giá trị cảnh quan do có địa thế rất đẹp: nằm trên lưng chừng núi Khám Sơn – được xem là phần đầu của con rồng (dãy Long Sơn), có tầm nhìn thoáng đãng ra cánh đồng và các dãy núi xung quanh (Trà Sơn, Lạn Kha, Thiên Thai). Theo GS. Trần Lâm Biền, nếu trước mặt chùa quang quẻ và có “các gò đống chầu về thì đó là một biểu hiện được coi như quy phụ Phật Pháp của mọi lực lượng thế gian”147. Với kiến trúc độc đáo và cảnh quan đẹp đẽ, chùa Bách Môn đã được sách “Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ” xếp vào 1 trong 8 nơi cổ tích và thắng cảnh của tỉnh Bắc Ninh đầu thế kỷ XX148.
6. Kết luận
Chùa Bách Môn là một ngôi chùa rất độc đáo trong lịch sử kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Cho đến nay chưa tìm thấy ngôi chùa nào có kiến trúc tương tự. Ngôi chùa này chứa đựng trong mình nhiều giá trị về lịch sử, kiến trúc và cảnh quan.
_Chú thích:
131.Mật Thể (1943), Việt Nam Phật giáo sử lược. Nxb. Tân Việt, Hà Nội
132.https://nghiencuulichsu.com/2017/09/18/ly-trieu-tan-bien-than-tong-hoang-de/
133.Huỳnh Công Bá (2001), Phật giáo thời Mạc qua tư liệu văn bia, Thông báo Hán Nôm học 2000
134.http://phatgiaonguyenthuy.com/news-4343/Lich-su-Phat-giao-va-dan-toc
135.http://vanhien.vn/news/Thai-hoang-Thai-hau-Vu-Thi-Ngoc-Toan
136.Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1989), Mỹ thuật của người Việt. Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội
137.http://phamnghiemtrai.com./kien-truc-doc-dao-chua-bach-mon/
138.Nguyễn Đỗ Bảo, Nguyễn Bá Vân, (1969), Bản vẽ kiến trúc chùa Bách Môn theo lời kể của người dân địa phương
139.Trần Lâm Biền, 1996. Chùa Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin Hà Nội, tr63-64
140.Gia Lộc, 2009. Văn hóa chùa. Nhà Xuất bản Văn hóa – Thông tin Hà Nội
141.Nguyễn Đỗ Bảo, Nguyễn Bá Vân, (1969), Bản vẽ kiến trúc chùa Bách Môn theo lời kể của người dân địa phương 142 Trần Trọng Kim, 1940. Phật lục. Editions Le Thang, Hanoi, tr96
143.Trần Trọng Kim, 1940. Phật lục. Editions Le Thang, Hanoi
144.Từ điển Hán Nôm http://hvdic.thivien.net
145.Trần Trọng Kim, 1940. Phật lục. Editions Le Thang, Hanoi, 96-97
146.http://phamnghiemtrai.com./kien-truc-doc-dao-chua-bach-mon/
147.Trần Lâm Biền, 1996. Chùa Việt. Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr63
148.Ngoài chùa Bách Môn, các thắng cảnh khác được ghi trong sách là: Đền Gióng (Phù Đổng – nay thuộc ngoại thành Hà Nội), Đền Cổ Pháp (Đền Lý Bát Đế), Rừng Thọ lăng, Lăng vua Lê Uy Mục, Chùa Lim, Bát Vạn Sơn, và Núi Tiên Sơn và Chùa Phật tích.
Tài liệu tham khảo:
- Huỳnh Công Bá (2001), Phật giáo thời Mạc qua tư liệu văn bia, Thông báo Hán Nôm học 2000
- Nguyễn Đỗ Bảo, Nguyễn Bá Vân, (1969), Bản vẽ kiến trúc chùa Bách Môn theo lời kể của người dân địa phương
- Trần Lâm Biền, 1996. Chùa Việt. Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội
- Trần Trọng Kim, 1940. Phật lục. Editions Le Thang, Hanoi
- Gia Lộc (2009), Văn hóa chùa, Nxb. Văn hóa – Thông tin Hà Nội
- Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư (1930), Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ. Nhà in Lê Văn Tân, Hàng Bông, Hà Nội.
- Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng, 1989. Mỹ thuật của người Việt. Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội
- Mật Thể (1943), Việt Nam Phật giáo sử lược. Nxb. Tân Việt, Hà Nội
- Từ điển Hán Nôm http://hvdic.thivien.net
- https://nghiencuulichsu.com/ly-trieu-tan-bien-than-tong-hoang-de/
- http://phamnghiemtrai.com./kien-truc-doc-dao-chua-bach-mon/
- http://phatgiaonguyenthuy.4343/Lich-su-Phat-giao-va-dan-toc
- http://vanhien.vn/news/Thai-hoang-Thai-hau-Vu-Thi-Ngoc-Toan