Nhận diện Kiến trúc Chùa truyền thống Huế (ThS.KTS Phạm Đăng Nhật Thái)

TẢI FILE PDF
—————–

          1. Đặt vấn đề

          Toàn tỉnh Thừa Thiên Huế hiện có 618 cơ sở thờ tự, trong đó có 305 tự viện và 313 đơn vị Niệm Phật đường( 282) (gồm: 3 chùa quốc tự, 6 chùa được công nhận di tích cấp quốc gia, 180 chùa Tăng và 125 chùa Ni). Riêng thành phố Huế, có hơn 122 ngôi chùa thuộc hệ phái Bắc tông, với 4 phong cách truyền thống phổ biến, nhất là cách kiến trúc chùa viện theo kiểu chữ khẩu (口), chữ Nhất (一), Tam (三), Liễu (了). Trong đó, các chùa có dạng cấu trúc chữ khẩu (口) là đặc biệt và hoàn chỉnh nhất trong mặt bằng có dạng hình vuông bởi các ngôi nhà bao vây xung quanh để tạo thành một không gian sân yên tĩnh bên trong. “Đây là kiểu kiến trúc đặc thù ở miền Trung mà hầu như không thấy ở miền Bắc và hiếm có ở miền Nam”(283). Hầu hết, quy mô chùa hiện nay, phần lớn là do lần đại trùng tu khoảng 1957 – 1962 và dù có tái thiết và xây dựng song nhìn chung chùa ở Huế trong giai đoạn này vẫn giữ đường nét cũ, ảnh hưởng của kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian Huế(284).

          Tuy nhiên hiện nay, các ngôi chùa Huế đã xảy ra như là một sự cạnh tranh giữa những chùa cao lớn vừa được trung tu hoặc xây dựng mới với những ngôi chùa truyền thống nhỏ nhắn, khiêm tốn. Ví như: Chùa Linh Quang (phường Trường An, thành phố Huế) đã được xây dựng thêm dãy nhà mới hiện đại hai tầng chiếm gần hết không gian. Chùa Phước Duyên (thôn An Ninh Thượng, phường Hương Long, thành phố Huế) đã được xây dựng lại với quy mô kiến trúc 2 đến 4 tầng, nguy nga và đồ sộ, lấn át lối kiến trúc chữ khẩu (口) truyền thống của ngôi chùa đã được xây dựng trước đây (1948). Cùng với đó, ngôi chùa Tường Vân từng là một ngôi chùa nổi tiếng với mặt bằng gồm bốn tòa nhà xếp tạo thành sân trong hình vuông theo kiểu chữ khẩu, bao gồm: chính điện (chánh điện), tăng xá (nhà cho sư), nhà khách (nhà cho khách) và nhà hậu (hậu điện). Tuy nhiên, năm 2013, chùa đã được xây dựng lại hoàn toàn mới và không phải là phong cách chùa truyền thống của Huế.

          Mỗi ban, ngành, hội đều có lý do và lập luận riêng trong việc xây dựng mới, tôn tạo lại ngôi chùa, rất khó để đối sánh, xác định “đẹp hay xấu, đúng hay sai”… Tuy nhiên, trong tiến trình này, lối kiến trúc của Huế nói chung và đặc điểm của chùa Huế nói riêng cần phải được nhìn nhận và xem xét. “Cái đẹp của Huế chỉ là cái đẹp tinh tế, không đồ sộ, khoa trương. Ngay cả kiến trúc cung đình so với các nước khác vẫn rất khiêm tốn, thì chùa Huế càng không thể là những chùa đồ sộ”(285). Thật như vậy, mặc dù đã hơi muộn để bổ sung, chấm dứt nhiều thay đổi mới, nhưng vẫn không quá muộn để thay đổi xu hướng bằng cách nhắc nhở cho mọi người và những bên liên quan về các giá trị, đặc điểm kiến trúc của chùa truyền thống Huế. Cùng với đó, trong mục tiêu xuyên suốt của Nghị quyết 54 của Trung ương(286) là xây dựng và phát triển Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản cố đô và bản sắc văn hóa Huế.

          Chúng ta cần chú ý đến giá trị di sản, đặc trưng kiến trúc để có biện pháp ngăn chặn kịp thời những thay đổi, xây mới ở các ngôi chùa cổ ở Huế. Chúng ta phải chắc chắn rằng, thế hệ trẻ vẫn còn có điều gì đó để tìm hiểu, học tập và thăm viếng. Nhận diện kiến trúc truyền thống Huế qua những đặc điểm, diện mạo kiến trúc trong bố cục tổng thể, chức năng và các họa tiết trang trí… là cần được hiểu rõ, được phổ biến và lưu truyền cho mai sau.

          2. Nhận diện kiến trúc chùa truyền thống Huế

          Sự hình thành kiến trúc truyền thống Huế là những ranh giới mềm dẻo giữa kiến trúc dân gian (nhà vườn, nhà rường…), kiến trúc cộng đồng (đình làng, chùa, miếu…) và kiến trúc cung đình (cung điện, lăng tẩm, đền đài…). Đây là những yếu tố tạo nên di sản kiến trúc của Huế. Bởi lẽ, “kiến trúc là chân dung của một gia đoạn lịch sử nhất định. Bởi kiến trúc là sự tổng hợp giữa trí thức, nhu cầu sinh hoạt, trình độ thẩm mỹ, tiến bộ kỹ thuật ở mỗi hoàn cảnh và môi trường cụ thể. Nói khác đi, kiến trúc chính là một tác phẩm mỹ thuật tổng hợp mà con người đã sáng tạo nên”(287 ).

          2.1. Sự hoàn chỉnh trong cấu trúc của ngôi chùa kiểu chữ khẩu

          Theo số liệu khảo sát của chúng tôi về những ngôi chùa tại thành phố Huế, đã tìm thấy 21 ngôi chùa cổ có dạng hình chữ khẩu (口), chiếm hơn 17% trong tổng số 122 ngôi chùa thuộc hệ phái Bắc tông (Hình 1). Khoảng 23% chùa được xây dựng mới hoàn toàn và không phải là phong cách chùa truyền thống Huế. Ba loại chùa truyền thống có cấu trúc dạng chữ Nhất (一), Tam (三), Liễu (了) còn lại chiếm 60%. Mặc dù các ngôi chùa có dạng chữ khẩu (口) không được nhiều, nhưng được yêu thích và ở dạng đầy đủ nhất ở Huế. Chúng đặc biệt nhất và hoàn chỉnh trong cấu trúc của kiến trúc tổng thể. Các ngôi nhà bao quanh để tạo thành một không gian sân trong yên tĩnh. Khái niệm mặt bằng kiểu chữ khẩu tức là các dãy nhà nối liền và khép kín tạo thành sân trong hình vuông, nhưng trong thực tế nó được tạo thành theo dạng hình gần vuông hoặc hình chữ nhật.

          Trong số 21 ngôi chùa cổ được xây dựng theo kiểu chữ khẩu (口) ở thành phố Huế, có 03 ngôi chùa ở phía Tây bắc và 18 ngôi chùa ở phía Tây nam của thành phố. Tuy nhiên, trong quá trình thực địa, một số ngôi chùa đã được xây mới và trùng tu, cải tạo đã làm biến dạng cách bố trí mặt bằng của loại hình chữ khẩu (口). Có 08 ngôi chùa đã được cải tạo, dịch chuyển vị trí xây dựng của một trong ba khối nhà ở phía sau của tòa chính điện. Việc cải tạo xây dựng này đã ảnh hưởng đến việc đóng, khép kín phần sân trong và chuyển cấu trúc của mặt bằng kiểu chữ khẩu. Ngoài ra, có 03 chùa được xây dựng mới theo phong cách mặt bằng hoàn toàn khác (Bảng 1).

          Như vậy, chỉ có 10 ngôi chùa duy trì bố cục hoàn chỉnh nhất của loại hình chữ khẩu và tất cả đều nằm ở phía Tây nam thành phố Huế, gồm: Chùa Báo Quốc; Từ Lâm; Đông Thuyền; Từ Hiếu; Trúc Lâm; Quốc Ân; Kim Tiên; Viên Thông; Thuyền Tôn; Diệu Viên. Các ngôi chùa còn lại trên danh sách đã có ít nhiều sự xây dựng mới hay chuyển dịch một trong các khối nhà làm ảnh hưởng đến bố cục nhất định của chữ khẩu so với cấu trúc ngôi chùa truyền thống chữ khẩu ở Huế.

          2.2. Nhận diện tổng thể của ngôi chùa kiểu chữ khẩu

          Cụ thể, các chùa tập trung ở 4 phường có vị trí trên núi và sườn đồi, trong đó: phường Đúc (01 chùa), phường Trường An (02 chùa), phường Thủy Xuân (04 chùa) và phường An Tây (03 chùa). Ngôi chùa ở phường Đúc là chùa cổ nhất, được thành lập vào năm 1674 và chùa mới nhất ở phường An Tây, được xây dựng năm 1924 (Bảng 2).

          Qua quá trình khảo sát và thu thập dữ liệu thực tế, các thành phần của một ngôi chùa chữ khẩu (Bảng 3), (Hình 3) bao gồm: Lối vào chính của chùa có cổng Tam Quan (1). Sân trước (2). Các thành phần chính của ngôi chùa là bốn ngôi nhà. Nhà ở phía nam là nhà chính điện (3). Phía tây là nhà tăng (4). Nhà khách ở phía Đông (5) và nhà hậu ở phía bắc (6). Bốn ngôi nhà này tạo thành một sân trong (7). Bên ngoài các thành phần chính, ngôi chùa cũng có các công trình lân cận như nhà ở dành cho các chú điệu (8), nhà bếp và nhà ăn (9). Ngoài ra, tượng Phật cũng được trang trí trong một nhà có dạng hình lục giác hoặc hình bát giác được bố trí ở vị trí sân trước (10). Toàn bộ các ngôi nhà trong tổng thể của chùa được bao quanh bởi cây xanh và khu vườn (11). Các tháp mộ có ở phía bắc, phía đông và phía tây (12).

          Như vậy, các thành phần chính của ngôi chùa có dạng chữu khẩu là: nhà chính điện, nhà tăng, nhà khách và nhà hậu. Nhà chính điện là công trình được xây dựng lớn nhất. Nó nằm ở phía nam và được tạo ra bởi hai ngôi nhà, chúng được kết nối theo kiểu 3 gian 2 chái; 5 gian 3 chái hoặc 7 gian 2 chái. Tất cả bốn ngôi nhà được bố cục hợp thành một sân bên trong và hướng chính mặt bằng của nó là nhìn vào sân bên trong. Sân trong được lát gạch hoặc được tô trát xi măng. Ngoài ra, nó được trang trí bởi các chậu hoa, cây cảnh, cây bonsai… các cây được xếp thành hàng, lối ngăn nắp. Tất cả 10 ngôi chùa khảo sát đều có nhà chính điện, là tòa nhà lớn nhất và quan trọng nhất trong tổng thể của ngôi chùa. Nó cũng được xây dựng ở vị trí chính và trung tâm của tổng thể một ngôi chùa (Hình 3).

          2.3. Đặc điểm kiến trúc nhà chính điện của chùa truyền thống Huế

Nhà chính điện ở chùa truyền thống Huế là công trình quan trọng nhất vì nó là kiến trúc chính và lớn nhất trong tổng thể của ngôi chùa. Chính điện là một công trình đa năng: là nơi thờ cúng, nơi học tập, giảng dạy và là nơi làm việc của sư trụ trì. Ngoài ra, nó còn là nơi dành cho hoạt động tôn giáo, học Phật pháp của các phật tử. Hơn nữa, nhà chính điện lại được xây dựng trước tiên và nằm ở phía trước của cấu trúc hình vuông của chữ khẩu rồi mới đến xây dựng các ngôi nhà khác. Nhà chính điện được xây dựng trên một trục chính từ cổng Tam Quan và lối vào chính.

          Nhà chính điện được kết nổi bởi hai ngôi nhà, đó là nhà tiền đường (nơi các phật tử quỳ lạy, cúng bái) và Chính điện (nơi đặt hệ thống các bàn thờ của Phật). Phòng của sư trụ trì và nơi dành cho các sư thầy thường nằm ở góc phía đông bắc và phía tây bắc của nhà chính điện (Hình 4).

          a. Mặt bằng của nhà chính điện

          Khảo sát 10 nhà chính điện của 10 ngôi chùa trong danh sách nghiên cứu thì 9 ngôi chùa đều có nhà chính chính điện và được hình thành bởi hai ngôi nhà kết nối với nhau. Riêng chính điện ở chùa Đông Thuyền chỉ có một ngôi nhà.

          b. Bậc cấp của lối vào nhà chính điện

          Lối vào nhà chính điện có 5 hoặc 7 bậc cấp. Hai linh vật thần thoại là con rồng hoặc kỳ lân được đặt ở hai phía đầu các bậc cấp. Cặp rồng hoặc kỳ lân được làm bằng xi măng hoặc bằng đá với chạm khắc, đắp nổi tinh tế. Trang trí hai bên cho các bậc cấp được tìm thấy ở 8/10 ngôi chùa. Dạng trang trí cho hai con rồng ở lối bậc cấp trước nhà chính điện của chùa Trúc Lâm được khảm tinh sảo với kỹ thuật gắn sành sứ (Hình 5).

          c. Hệ cột

          Hầu hết hệ thống cột gỗ của 9/10 ngôi chùa đã được thay thế bằng cột bê tông hình trụ tròn, được sơn màu nâu để mô phỏng các cột bằng gỗ. Chỉ có hệ thống cột của chùa Đông Thuyền vẫn được giữ lại bằng gỗ. Riêng chỉ hệ thông cột của chùa Trúc Lâm là có hình dạng vuông. Ngoài ra, ở vị trí hàng cột hiên của 6 ngôi chùa được trang trí với hình dạng cột tròn có chạm khắc mình rồng uốn quanh. Chân cột được hình thành với dạng hình trống và hình tượng hoa sen ở trên đầu cột. Hệ thống cột hiên của 3 ngôi chùa khác có hình dạng cột trơn, đơn giản, không có hình rồng chạm khắc uốn lượn quanh cột (Hình 6).

          d. Tường

          Tường xung quanh nhà chính điện là đơn giản được xây bằng xi măng và gạch. Ở các vị trí gian của nhà chính điện là hệ thống cửa gỗ, theo kiểu thượng song hạ bảng. Tường ở vị trí chái ở hai bên của chính điện được trổ cửa thông gió, nó được trang trí bởi kỹ thuật đúc xi măng và chạm lọng họa tiết hoặc được gắn thêm sành sứ. Các họa tiết này được đúc với hình ảnh con rồng vờn mây, hoặc các hình hạng thân ngựa và đầu rồng (long mã) hoặc những chữ Thọ, chữ Vạn cách điệu. Các trang trí phù điêu này được tìm thấy trên hai bức tường chái của tất cả các ngôi chùa (Hình 7).

          e. Mái

          Hệ mái của nhà chính điện có hai lớp chồng lên nhau (điệp ốc) để nâng chiều cao và không gian của ngôi đền (Hình 8). Giữa hai lớp mái được xây bằng gạch, xi măng tạo một khoảng cách thành các khoảng. Trên các khoảng, ô hộc này được trang trí theo phong cách nhất thi- nhất họa (một bài thơ ứng với một bản vẽ) (Hình 9). Kiểu mái điệp ốc này được tìm thấy trên các nhà chính điện của 9 ngôi chùa trong nghiên cứu này. Chỉ có chính điện của chùa Đông Thuyền là mái lợp một lớp như kiểu của nhà rường truyền thống Huế.

          g. Chi tiết trang trí

          Các họa tiết trang trí trên mái, nằm ở giữa của nhà chính điện có hình dạng đầu rồng đội bánh xe luân hồi. Chúng được tìm thấy ở 9/10 ngôi chùa nghiên cứu (Hình 10). Riêng chỉ có trên mái của chùa Đông Thuyền là hình ảnh của một quả cầu lửa. Các họa tiết trang trí ở các góc mái của nhà chính điện là hình ảnh của bốn con vật thần thoại (linh vật), đó là long- lân- quy- phụng. Chúng được tìm thấy ở 8/10 ngôi chùa, ngoại trừ chùa Từ Lâm và chùa Đông Thuyền. Trên các góc mái của hai chùa này là hình ảnh của con rồng và những đám mây (rồng vờn mây).

          h. Vật liệu

          Các bức tường, nền và mái của tất cả các chùa trong nghiên cứu đều được xây dựng và trang trí bằng gạch và xi măng. Các kết cấu bằng gỗ đều đã được thay thế bằng bê tông trong 9/10 ngôi chùa nghiên cứu. Chỉ có chùa Đông Thuyên vẫn giữ được hệ thống kết cấu bằng gỗ (Hình 11).

          Việc sử dụng màu sắc của chùa Huế rất hài hòa, nhẹ nhàng. Các màu được sử dụng chủ yếu là màu nâu, xám, vàng nhạt, trắng và kem. Màu vàng nhạt là màu chủ đạo, và được tìm thấy trong 7/10 ngôi chùa. Màu xám được tìm thấy ở chùa Đông Thuyền và chùa Từ Hiếu. Riêng chỉ có chùa Viên Thông là được sơn trắng. Ngược lại, các màu rực rỡ lại được sử dụng cho tất cả các họa tiết trang trí với các cặp màu tương phản, như màu đỏ và xanh lá, màu xanh đậm và màu cam, màu vàng và màu tím…

          2.4. Ảnh hưởng kiến trúc cung điện và dân gian lên cấu trúc chùa chữ khẩu truyền thống Huế

          Đặc điểm kiến trúc kiến trúc chùa Huế chính là sự hội tụ, giao thoa và có nhiều ảnh hưởng giữa kiến trúc dân gian, cung đình, và kiến trúc cộng đồng. Trong đó:

          – Với nhà chính điện: Qua quá trình khảo sát, chúng tôi tìm thấy trong 9 ngôi chính điện được xây dựng bởi hai ngôi nhà trên cùng một nền móng, với hai lớp mái và các họa tiết trang trí trên mái. Tuy nhiên, có những họa tiết ở cầu thang của điện thờ chính chỉ có trong 7 ngôi chùa. Vật liệu lợp ngói truyền thống được tìm thấy trong 8 nhà chính điện. Những phát hiện này là phong cách của kiến trúc cung điện.

          – Với nhà tăng, nhà khách và nhà hậu: Ba ngôi nhà gồm nhà tăng, nhà khách và nhà thờ hậu đều có cấu trúc mặt bằng là nhà 3 gian 2 chái. Hệ cột, kèo, xuyên trến đơn giản, ít chạm trổ và thanh mảnh tương tự như ngôi nhà truyền thống. Hình dạng mái được cắt lớp 2 tầng như kiểu kiến trúc dạng mái cung điện, chỉ được tìm thấy ở 03 ngôi chùa (Bảo Quốc, Trúc Lâm và Diệu Viên) với vị trí là nhà tăng. Kiến trúc mái kiểu cung điện cũng được tìm thấy ở vị trí nhà khắc của 3 ngôi đền (Bảo Quốc, Kim Tiên và chùa Từ Hiếu) và 2 ngôi chùa là Thuyền Tôn và chùa Diệu Viên. Tất cả 3 ngôi nhà của 10 ngôi chùa được sử dụng ngói truyền thống cho phần mái. Các họa tiết trang trí với mô típ của đám mây được phát hiện ở vị trí các góc mái nhà và biểu tượng chữ Vạn ở giữa trên cùng của mái nhà. (Bảng 3).

          Tóm lại, từ bảng khảo sát, chúng ta có thể thấy đặc trưng kiến trúc trong các đền thờ của kế hoạch hình vuông bị ảnh hưởng bởi đặc điểm kiến trúc của nhà truyền thống và cung điện Hoàng gia. Trong đó, đền chính bị ảnh hưởng bởi đặc điểm của cung điện Hoàng gia. Ba tòa nhà là nhà sư, nhà khách và nhà thờ thờ bị ảnh hưởng bởi đặc điểm của ngôi nhà truyền thống.

          3. Định hướng bảo tồn cho kiến trúc chùa truyền thống Huế

          Trên thực tế, hầu hết các chùa chữ khẩu rất khó thực hiện một số hoạt động bảo tồn bởi vì tất cả các hoạt động bên trong ngôi chùa phải được chấp nhận bởi vị sư trụ trì của ngôi chùa, sau đó là sự tài trợ, góp sức của các tín đồ Phật tử, mạnh thường quân và sự cho phép của sở, ngành, Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế. Cho đến nay, nhiều nghiên cứu trước đây chưa đưa ra bất kỳ hồ sơ nào liên quan đến bảo tồn ngôi chùa truyền thống Huế. Nghiên cứu này là khái quát và là cơ sở trong việc hướng dẫn bảo tồn kiến trúc chùa chữ khẩu nói riêng cũng như kiến trúc chùa truyền thống Huế nói chung. Một số được định hướng bảo tồn được chúng tôi đưa ra như sau:

          1. Vườn và cây xanh là một yếu tố không thể thiếu trong chùa Huế. Cây xanh cần được trồng nhiều trên tất cả các loại sân vườn của chùa. Ở phía trước của sân luôn trồng cây thông, cây bách, cây cọ, cây cảnh, cây tre, cây sanh, cây si và bồ đề. Sân trong bao quanh bởi bốn kiến trúc chính nên trồng chủ yếu cây bonsai, mơ, anh đào, lan, hoa sứ trắng (cây đại), cây cọ. Sân sau nên trồng các hệ thực vật rau xanh như rau khoai, cây bắp cải, rau muống, cà chua, cà tím, bầu, bí…

          2. Nhà chính điện luôn nằm ở phía trước của chùa. Công tình được xây dựng bởi hai ngôi nhà trên một nền móng và được kết nối “trùng thềm” với nhau. Nhà tiền đường ở trước, có 3 hoặc 5 gian 2 chái. Nhà chính điện liền kề song song cùng với nhà tiền đường cũng có từ 3 đến 5 gian và 2 chái, hoặc 7 gian 2 chái.

          3. Các họa tiết trang trí trên mái, trên các bức tường của 2 chái và trên các hàng cột hiên (nhà tiền đường) nên được chạm khắc bằng xi măng và gắn những mảng ghép sành sứ. Hàng cột hiên với hình ảnh con rồng uống quanh cột và hoa sen được sử dụng cho đầu cột, chân đế cột có dạng hình trống. Các linh vật: long – lân – quy – phụng ở các vị trí góc của mái nhà. Biểu tượng mặt rồng và bánh xe của luân hồi trên đầu được đặt ở giữa sóng mái của nhà chính điện. Các ô hộc được trang trí ở giữa hai lớp mái nên được viết và vẽ về các câu chuyện của Phật giáo và vẻ đẹp của ngôi chùa theo lối “nhất thi nhất họa”. Các bức phù điêu với các họa tiết của thân ngựa với đầu rồng (long – mã), hoặc con rồng với những đám mây (rồng vờn mây), hoặc biểu tượng chữ Vạn (卍) nên được xây dựng trên bức tường phía trước của 2 chái. Hình tượng của con rồng hoặc kỳ lân được chạm khắc với hình dáng “ngồi chầu” ở hai của lối lên tam cấp phía trước của nhà tiền đường.

          4. Các cột tròn nên được sử dụng cho tất cả các tòa nhà của ngôi chùa. Những cột hiên luôn bị ảnh hưởng bởi khí hậu khắc nghiệt của Huế, cho nên có thể được thay thế bằng vật liệu bê tông được sơn màu giả gỗ cho hàng cột hiên của nhà tiền đường và các cột bên trong của nhà chính điện. Bởi vì, chính điện là tòa nhà lớn nhất và được kết nối bởi 2 ngôi nhà, do đó các cột gỗ đã được thay thế bởi bê tông để kết cấu của ngôi chùa chính là chắc và bền vững hơn. Các cột bên trong nhà tăng, nhà khách và nhà thờ hậu được sử dụng bằng gỗ tương tự như ngôi nhà truyền thống Huế.

          5. Vật liệu được sử dụng cho xây dựng từ địa phương như: gỗ, gạch, gạch men, xi măng, cát, đá và gốm, sành sứ… nên được khuyến khích. Việc sử dụng các vật liệu công nghiệp, vật liệu hiện đại nên hạn chế càng nhiều càng tốt. Bởi, khi so sánh các vật liệu tự nhiên với vật liệu hiện đại, nhận thất vật liệu tự nhiên từ địa phương có thể biểu thị hiệu quả các giá trị lịch sử hơn vật liệu hiện đại. Vì vậy cần khuyến khích sử dụng các vật liệu tự nhiên của địa phương như ngói liệt truyền thống, gỗ mít, sắt, gỗ kiền, gạch đất nung để xây dựng và trùng tu chùa.

          6. Màu sắc chính trong chùa nên có màu xám và vàng nhạt. Các màu sắc đậm, mạnh và tương phản có thể được sử dụng để trang trí các họa tiết, các ô hộc giữa hai lớp mái… như màu đỏ và ngọc bích; màu cam và tím đỏ; xanh lá cây và đỏ thẩm; vàng và tím.

          Trong ý thức của người Huế và những Phật tử, các sư tăng, ni và những nhà tài trợ, mạnh tường quân trong và ngoài nước đã góp sức người, sức của, đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và xây dựng chùa truyền thống Huế. Đây là một nhu cầu cấp bách để thúc đẩy nhận thức bảo tồn, xây dựng kiến trúc truyền thống để duy trì những di sản kiến trúc có giá trị cho tương lai, cho lớp trẻ Huế nói riêng, người Việt nói chung và các du khách trên thế giới khi đến với hệ thống di sản kiến trúc chùa truyền thống Huế.

          4. Kết luận

          Nhận diện kiến trúc chùa truyền thống Huế chính là nhận diện loại hình di sản kiến trúc chùa kiểu chữ khẩu bởi bao hàm nhiều yêu tố đặc trưng bên trong. Các ngôi chùa truyền thống đều được xây dựng trên địa hình đồi núi. Toàn bộ các chùa có lối vào chính là đi qua cổng Tam Quan. Hướng của ngôi chùa phụ thuộc vào sự tiếp cận của con đường và địa hình của nơi xây dựng chùa. Các công trình chính: nhà chính điện, nhà tăng, nhà khách và nhà hậu tạo nên sân yên tĩnh bên trong. Đặc trưng kiến trúc là sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi kiến trúc dân gian, của nhà truyền thống và kiến trúc cung điện thời Nguyễn. Trong đó, nhà chính điện bị ảnh hưởng bởi kiến trúc cung điện. Ba công trình còn lại là nhà tăng, nhà khách và nhà hậu bị ảnh hưởng bởi kiến trúc ngôi nhà rường truyền thống dân gian Huế.

          Di sản kiến trúc chùa truyền thống Huế còn lại của ngày hôm nay đã được xây dựng, trùng tu, cải tạo và mở rộng bởi các chúa Nguyễn từ năm 1558 đến triều Nguyễn cuối 1945. Sau đó, đền thờ được tu bổ và xây dựng lại từ năm 1957 đến năm 1962 bởi người dân, các Phật tử và Hội phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế cùng sở ban ngành để chùa Huế vẫn còn hiện hữu và tồn tại cho đến ngày hôm nay.

P.Đ.N.T

 

 

 

_Chú thích:

282. Báo cáo tại Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ VII (nhiệm kỳ 2017-2022) ngày 16/3/2018 tại Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế.

283. Thích Kiên Định (2013), Lược sử chùa Thièn Tôn và Tổ liễu quán truyền thừa, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr.21.

284. Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách (1993), Danh lam xứ Huế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr. 29.

285. Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách (1993), Danh lam xứ Huế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.30.

286. Nghị quyết 54-NQ/TW của Bộ chính trị, về xây dựng và phát triẻn tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

287. Nguyễn Hữu Thông, Dương Phước Luyến, Lê Văn Sách, Mai Khắc Ứng, Trần Đại Vinh (1992), Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr. 41.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Báo cáo tại Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ VII (nhiệm kỳ 2017-2022) ngày 16/3/2018 tại Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế.
  2. Nghị quyết 54-NQ/TW của Bộ chính trị, về xây dựng và phát triẻn tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  3. Nguyễn Hữu Thông, Dương Phước Luyến, Lê Văn Sách, Mai Khắc Ứng, Trần Đại Vinh (1992), Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
  4. Hà Xuân Liêm (2000), Những ngôi chùa Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.
  5. Trần Đại Vinh, Nguyễn Hữu Thông, Lê Văn Sách (1993), Danh lam xứ Huế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
  6. Thích Kiên Định (2013), Lược sử chùa Thièn Tôn và Tổ liễu quán truyền thừa, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
  7. https://phat-trien-thua-thien-hue-tro-thanh-thanh-pho-di-san (truy cập ngày 28/8/2021)