Nét đặc thù trong Kiến trúc Tổ định Linh Quang tịnh xá (ĐĐ.TS Thích Nguyên Thế)

TẢI FILE PDF
—————–

           1. Khái quát về nhóm Khất sĩ Đại sư Huệ Nhựt

           Nguyễn Quốc Tuấn từng nhận định: “Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ 20 đứng trước thách thức chưa từng có: Làm thế nào có thể tồn tại và thích nghi với những biến động sâu sắc không chỉ trong phạm vi quốc gia, mà còn trong phạm vi quốc tế đầy ắp những biến động dữ dội.” và thực tế hơn nữa là: “Phật giáo Việt Nam cũng sẽ đối diện với những vấn đề nội tại riêng tư, mà nói một cách khác, nó vừa phải tự mình “hiện đại hóa” trong khi vừa bảo lưu các nguyên tắc vốn đã sinh thành ra nó, vốn đã thâm nhập một cách sâu rộng trong xã hội Việt Nam từ cổ đến nay”351. Thật vậy, vai trò của Phật giáo đã trở nên mờ nhạt và bao trùm một không khí ảm đạm; chính vì lẽ đó các bậc trí sĩ Phật giáo đã chọn con đường chấn hưng, canh tân, đổi mới, đưa Phật pháp vào đời, khai tâm mở trí cho quần chúng, nâng cao vị thế của Phật pháp ứng dụng hơn là những nhu cầu thuần túy tâm linh, tín ngưỡng. Chính vì thế, bên cạnh việc thành lập các hội đoàn Phật giáo thì các tổ chức, sơn môn, hệ phái Phật giáo cũng tự tạo cho mình màu sắc riêng để xiển dương theo những đường lối mang tính đặc thù, biệt truyền. Trên tinh thần đó, Đại sư Huệ Nhựt đã có hướng đi riêng trong việc thực hành và hoắng pháp của mình, Ngài thành lập nên tông phái Khất sĩ Bắc tông Việt Nam, và được các nhà nghiên cứu gọi tên là nhóm Khất sĩ Đại sư Huệ Nhựt để có sự phân biệt với các đoàn thể khất sĩ khác cùng thời.

           1.1. Đôi nét về cuộc đời Đại sư Huệ Nhựt

           Đại sư Huệ Nhựt (1903 – 1950), người Bình Thuận di cư vào sống tại Gia Định, trải qua các biến cố của cuộc sống đời thường, Ngài phát tâm xuất gia tu học. Đại sư Huệ Nhựt là môn hạ của dòng thiền Lâm Tế Liễu Quán đời thứ 45, pháp danh Quảng Thạnh tại chùa Linh Sơn Tiên Thạch (Tây Ninh) do tổ Đạo Trung – Thiện Hiếu khai sơn giữa thế kỷ 18. Từ nền tảng tu tập của Phật giáo Đại thừa (Bắc tông) và phương pháp tu tập có phần huyền vi do tiếp thu từ vùng núi rừng Linh Sơn – núi Bà Đen (Tây Ninh), Ngài đã hình thành lối hành trì và hoằng pháp thiên về Mật tông. Năm 1938, cảm nhận thời cuộc và đạo pháp suy vi, cần phải phát dương những giá trị chân lý của đạo Phật, Ngài quyết định thực hành hạnh đầu đà khất sĩ, sáng lập một tông phái mới đó là: “Khất sĩ Bắc tông Việt Nam” lấy phương châm là “Ngọn đèn không tim tỏa sáng nhà Phật giáo truyền” và “Thích Ca chánh tông” làm mục đích hoằng pháp. Sau đó, đặt tên cho tịnh thất của mình là Linh Bửu Tự (Cầu Hang, quận Gò Vấp). Năm 1943, Ngài về trụ trì chùa Vạn Thọ (phường Tân Định, quận 1) và cho phát hành quyển “Pháp môn đáo bỉ ngạn” làm tông chỉ tu tập cho các hàng đồ chúng, Phật tử.

           1.2. Tư tưởng chủ đạo

           Đại sư Huệ Nhựt đã chọn con đường hòa hợp, giữ gìn và trân quý những giá trị tu tập, hành trì của các truyền thống Phật giáo, khác biệt chỉ ở cách thể hiện hình tướng bên ngoài của vị Khất sĩ đầu đà khổ hạnh với “tam y, nhất bát”. Pháp môn Đáo bỉ ngạn là lời nói, tâm nguyện, là tuệ giác mà Đại sư đã ngộ. Qua đó, Đại sư đã chỉ rõ pháp môn Tịnh độ là nền tảng tu tập căn bản. Bên cạnh việc nguyện cầu và nương vào “Tha lực, nguyện lực” của Phật A Di Đà thì Đại sư cũng đề cao sự “tự tu, tự độ” của tư tưởng Thiền tông Đông độ (Tổ sư Thiền) và tinh thần nhập thế rất triệt để. Ngoài ra việc kết hợp các yếu tố Thiền – Tịnh – Mật cũng là một chủ trương được nhiều tổ chức tôn giáo tại Nam Bộ đầu thế kỷ 20 kế thừa352. Đây là nét đặc trưng rất riêng không chỉ của Phật giáo Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến các tôn giáo nội sinh tại Nam Bộ.

           2. Đặc điểm kiến trúc của Tổ đình Linh Quang tịnh xá

           Tổ đình Linh Quang tịnh xá được xây dựng từ năm 1963 trên khu vực cù lao đầm lầy, không nhà cửa. Ban đầu chỉ là một chòi tranh đơn sơ dùng làm nơi tu học cho đoàn du tăng. Đến năm 1969, công trình ngôi chính điện được hoàn thành và giữ nguyên hiện trạng. Đến năm 1992, tông môn khánh thành thêm ngôi bảo tháp và giảng đường, năm 1994 chính thức hoàn tất các hạng mục công trình xây dựng. Là cơ sở đầu tiên và cũng là trụ sở chính của tông phái, tổ đình Linh Quang có những nét đặc thù độc đáo ở tính kế thừa kiểu kiến trúc mới trong giai đoạn chấn hưng và cận đại, vẫn gìn giữ lối trang trí cổ truyền nhưng xây dựng bê tông hóa và có lầu, ưu tiên cho tính thoáng đãng, rộng rãi, bài trí đơn giản tạo không gian cho việc thuyết giảng, quy tụ quần chúng, Phật tử tín đồ.

           Điểm đặc biệt của Linh Quang tịnh xá là phía trước cổng Tam quan có chiếc cầu Long Hoa dẫn vào chùa. Bên trái của chính điện từ trong nhìn ra là một tấm bia: một mặt lược ghi tiểu sử của hòa thượng Phổ Ứng, vị khai sơn ngôi tổ đình; mặt còn lại được khắc nội dung lịch sử của ngôi tổ đình Linh Quang. Phía sau tấm bia là tòa tháp 7 tầng, tầng trên cùng thờ tôn tượng và linh cốt của chư vị tổ sư khai sáng và hoằng truyền Phật giáo Khất sĩ Bắc tông, tầng còn lại dùng để thờ tro cốt của tín đồ.

           2.1. Cầu Long Hoa

           Long hoa là từ nói tắt của Hội Long Hoa. Theo Từ điển Phật học, thì khi nhắc đến hội Long Hoa là nhắc đến một sự kiện quan trọng liên quan đến đức Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Truyền thuyết cho rằng, Phật Di Lặc sẽ thành đạo dưới cội cây Long Hoa và tại dưới gốc cây này ngài sẽ ba lần tuyên thuyết giáo pháp (Long hoa tam hội) để khai ngộ chúng sinh. Chính vì thế, hình ảnh hội Long Hoa là ngụ ý cho sự giải thoát, giác ngộ ở tương lai. Cây cầu Long Hoa là con đường đưa đến bến bờ giải thoát, đưa chúng sinh từ chỗ mê lầm đến bên kia bến bờ giải thoát. Trước cổng Tam quan của ngôi Tổ đình Linh Quang tịnh xá đã được thiết kế một chiếc cầu Long Hoa cũng không ngoài mục đích, ý nghĩa đưa chúng sinh đến với giáo pháp giải thoát siêu việt của đấng đạo sư.

           2.2. Ban thờ chính (chính điện)

           Tòa nhà lớn nằm ở vị trí trung tâm là ngôi chính điện. Nét đặc thù của ngôi tổ đình là không theo lối truyền thống “Tiền Phật, hậu Tổ”. Khu vực thờ tổ được chuyển lên tầng cao nhất của ngôi tháp 7 tầng. Tượng bổn sư Thích Ca trong tư thế xúc địa ấn (Bhūmisparśa Mudrā) được bố trí ở trung tâm, nơi cao nhất. Tiếp theo là bốn lớp tượng:

           Lớp tượng Phật A Di Đà đứng, trái: Mục Kiền Liên, phải: Địa Tạng bồ tát.

           Lớp tượng Phật Thích Ca Nhập Niết bàn.

           Lớp tượng Phật Thích Ca theo phong cách Miến Điện với thủ ấn Thiền định (Dhyāni Mudrā), hai bên là 2 tượng Thích Ca trì bình (Đứng ôm bát).

           Lớp tượng Thích Ca Sơ Sinh.

           Hai bên khu vực trung tâm chánh điện là: Tiêu diện đại sĩ (trái) và Hộ pháp Vi Đà (phải). Khu vực ngoài bên phải là ban thờ Quan Âm Bồ tát, phía bên trái là khu vực trai đường và bàn công đức lâm. Đây là khu vực thọ trai hàng ngày của tăng chúng nội tự và cúng “quá đường – trai tăng”. Ban thờ chính được bài trí giản dị, không trang trí liễn, đối, hoành phi,… nhưng vô cùng thoáng đãng, tạo không gian mở, rộng rãi.

           2.3. Trang trí trần (vòm chính điện)

           Hai dãy tường trên trần cũng được vẽ các bức tranh mô tả về lịch sử cuộc đời của đức Phật, phía dưới các bức tranh là hai câu:

“Ánh sáng chân lý chan hòa vũ trụ,
Đức Từ bi bao phủ khắp muôn loài.”

           Từ phía trong nhìn ra, bên dưới của bức phù điêu hình bàn tay nâng bánh xe chuyển pháp luân là dòng Hán tự: “Phật đạo hoằng khai quy tứ chúng” (Đạo Phật mở bày rộng khắp làm nơi quay về cho bốn chúng). Từ phía mặt tiền của ngôi chánh điện có thể nhìn thấy tấm hoành bằng chữ Hán: “Linh Quang tịnh xá”.

           2.4. Bố cục chính của chính điện

           Cách bài trí của ngôi chánh điện ảnh hưởng bởi tư tưởng Tịnh độ, chuyên tu “Tín – Hạnh – Nguyện” để cầu vãng sinh, không gian bên trong chánh điện cũng được phân chia thành 3 phẩm rõ rệt theo phương pháp “Tam bối vãng sanh”, đó là:

           Thượng phẩm thượng sinh: tượng trưng cho khu vực ban thờ trung tâm của chánh điện.

           Trung phẩm trung sinh: tượng trưng cho khu vực nơi chư tăng hành lễ.

           Hạ phẩm hạ sinh: tượng trưng cho khu vực tín đồ Phật tử đến lễ bái, tụng niệm hàng ngày.

           Căn cứ theo cách thiết trí nơi chính điện, để phân định rõ 3 phẩm thì: Phần thượng và Trung phẩm được trang trí theo lối chạm, khắc phù điêu ao sen; còn phần Hạ phẩm là hình một ao nước xanh xung quanh và bờ đê có màu đất của gạch353.

           Ngoài ra, còn có một số công trình phụ khác như, phòng khám từ thiện, văn phòng, thư viện, phòng phát hành, tăng xá,… Tất cả công trình được xây dựng theo lối hiện đại nhưng vẫn giữ gìn được nét đặc trưng của văn hóa truyền thống và chùa Việt với đầu mái cong và họa tiết hoa sen.

           3. Kết luận

           Sự xuất hiện của các đoàn thể Khất sĩ với các phương thức hành đạo khá mới mẻ trên tinh thần phục hồi các phương pháp truyền thống lâu đời của Phật giáo. Việt Nam và khu vực miền Nam vốn đã quen thuộc với Phật giáo Bắc tông và một bộ phận Phật giáo Nam tông Khơ-me tập trung ở khu vực Tây Nam bộ. Mỗi truyền thống đều có những giá trị rất riêng, sự xuất hiện của các tổ chức Khất sĩ trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX thực sự là một kết hợp hoàn hảo của cả hai truyền thống Nam – Bắc tông. Vì thế, các tổ chức Khất sĩ đã tạo được những nét rất riêng và thu hút được một số lượng tín đồ, quần chúng đáng kể.

           Do đặc thù văn hóa, địa lý và tình hình chính trị tại Nam bộ mà các hội đoàn tôn giáo xuất hiện khá nhiều so với miền Bắc và miền Trung. Tư tưởng và pháp môn chủ yếu là Tịnh độ và kết hợp với Thiền – Mật, tạo thành sinh hoạt tu tập đặc thù, linh hoạt và phù hợp với văn hóa bản địa, mà cụ thể là Phật giáo ở Nam bộ. Sự kết hợp của cả Thiền – Tịnh – Mật, cả đốn lẫn tiệm là một nghệ thuật và phương tiện diệu dụng. Sự sáng tạo mang tính năng động, cởi mở và uyển chuyển nhưng cũng đã không làm mất đi các giá trị, bản sắc của Phật giáo nói chung và nghệ thuật kiến trúc Phật giáo nói riêng. Ngược lại, sự kết hợp đó minh chứng cho sự thống nhất trong đa dạng của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo và tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam hướng đến lợi ích cho số đông và cộng đồng xã hội.

 

 

 

_Chú thích:

351. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ 20, Nxb. Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, tr5, 9

352. Hà Văn Tấn (1987), “Về 3 yếu tố của Phật giáo Việt Nam: Thiền, Tịnh, Mật”, Tập Văn số 9, Ban Văn hóa TƯ GHPGVN, tr75,79

353. Linh Quang tịnh xá với những Phật sự và công tác xã hội (1989 – 2004), Nxb. Tôn Giáo (2004), tr5

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Đại sư Huệ Nhật (1948), Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội
  2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2001), Biên niên sử Phật giáo Gia Định – Sài gòn, thành phố Hồ chí Minh (1600 – 1992), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
  3.  Linh Quang tịnh xá với những Phật sự và công tác xã hội (1989 – 2004), Nxb. Tôn giáo (2004)
  4. Nguyễn Quốc Tuấn đồng chủ biên (2016), Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội
  5. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ 20, Nxb. Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội.
  6. Thích Hạnh Thành (2007), Tìm hiểu Phật giáo Khất sĩ ở Nam bộ (trong thế kỷ XX), Nxb. Tổng Hợp – Tp Hồ Chí Minh.
  7. Trần Hồng Liên (2004), Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
  8. Trần Hồng Liên (2000), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ từ thế kỷ XVII đến 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
  9. Trần Hồng Liên (2007), Phật giáo ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp Tp.HCM