Đệ nhị tổ Pháp Loa với chùa Báo Ân và việc biên soạn, san khắc kinh điển Phật giáo (PGS.TS. Chu Văn Tuấn, ThS. Nguyễn Văn Quý)

 

Tôn ảnh Thiền sư Pháp Loa tại Cung Trúc Lâm, Yên Tử.
(Ảnh: daophatvietnam.com)

ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI ĐỆ NHỊ TỔ PHÁP LOA (1284-1330)

Đệ nhị tổ Pháp Loa tục danh là Đồng Kiên Cương, quê làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Theo cuốn Thiền sư Việt Nam, cha Ngài là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Trước khi sinh ra Ngài, thân mẫu mộng thấy có người trao cho thanh thần kiếm, bà nhận lấy và từ đó biết mình có thai. Khi sinh ra Ngài, bà rất đỗi vui mừng, đặt tên con là Kiên Cương. Ngay từ nhỏ, Ngài đã là người đặc biệt, không nói lời ác và không ăn thịt cá.

Năm 1304, một lần Điều Ngự Giác Hoàng (Phật hoàng Trần Nhân Tông) đi thuyết giảng Phật pháp và phá bỏ dâm từ (miếu thờ thần không chính đáng) ở Nam Sách. Ngài đến làm lễ và xin xuất gia. Điều Ngự nói rằng: “Kẻ này có đạo nhãn, sau ắt làm pháp khí, vui vẻ tự đến đây”, rồi ban hiệu là Thiện Lai, dẫn về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn và cho thụ giới Sa di. Điều Ngự cho phép Ngài đến tham học với Hòa thượng Tính Giác ở Quỳnh Quán. Sau một thời gian, Ngài trở về tham yết với Đức Điều Ngự. Năm 1305, Điều Ngự cho Ngài lên Kỳ Lân để thụ giới Tỳ kheo và giới Bồ tát, thấy được sở học của Ngài liền ban hiệu Pháp Loa. Ba năm sau, vào năm 1307, lúc này Ngài 24 tuổi đã được Đệ nhất tổ – Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông giảng riêng Đại Tuệ ngữ lục và trao hơn 200 bộ kinh; Đồng thời, Điều Ngự lấy y bát và viết tâm kệ trao cho Ngài và dạy khéo giữ gìn, Ngài trở thành đệ nhị tổ của Phật giáo Trúc Lâm. Năm 1308, Ngài vâng mệnh Điều Ngự làm lễ nối pháp trụ trì chùa Siêu Loại (tức chùa Báo Ân), là chủ Sơn môn Yên Tử. Cuối năm này, Điều Ngự viên tịch, Ngài phụng mệnh rước xá lợi về kinh đô, đồng thời soạn lại những bài tụng của Điều Ngự khi ở Thạch Thất thành quyển Thạch Thất mỵ ngữ.

Năm 1311, Ngài phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại tạng kinh, giảng Truyền đăng lục tại chùa Siêu Loại. Năm 1317, Ngài bệnh nặng nên đem y bát và viết tâm kệ trao cho Huyền Quang. Nhưng sau ít hôm, Ngài khỏe trở lại. Năm 1329, Ngài hưng công tôn tạo chốn tổ Côn Sơn và Thanh Mai Sơn thành danh lam rồi mở hội thuyết pháp. Năm 1330, Ngài phát bệnh trong hội giảng Hoa Nghiêm kinh. Ít ngày sau, Ngài viên tịch, an táng tại chùa Thanh Mai. Vua Trần Minh Tông phong Đệ nhị tổ Pháp Loa hiệu Tịnh Trí Tôn Giả, đặt tên tháp là Viên Thông. Sau khi Đệ nhị tổ Pháp Loa mất, Tôn giả Huyền Quang kế đăng làm Đệ tam tổ. Hoạt động Phật sự của đệ Nhị tổ Pháp Loa rất rộng, từ thuyết pháp, độ tăng đến xây dựng chùa chiền, tạo tượng dựng tháp, ấn tống kinh điển Phật giáo,… ở lĩnh vực nào Ngài cũng vô cùng xuất sắc. Ở bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến chùa Báo Ân – nơi trụ trì và giảng pháp và hoạt động biên soạn, san khắc kinh điển Phật giáo của Ngài.

ĐỆ NHỊ TỔ PHÁP LOA VỚI CHÙA BÁO ÂN

Chùa Báo Ân hiện nay tọa lạc bên tả ngạn dòng Thiên Đức cổ, thuộc thôn Trung, xã Dương Quang, huyện Gia Lâm. Trong hệ thống di vật ở chùa, đáng chú ý là pho tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông và 06 tấm bia đá thời Hậu Lê. Nội dung văn bia ca ngợi ngôi chùa là một danh lam xứ Kinh Bắc xưa và quá trình tu bổ chùa với sự góp mặt của nhiều vương công, quý tộc họ Trịnh. Chùa Báo Ân mà chúng ta thấy ngày nay lại khá nhỏ bé so với quy mô thời Trần qua mô tả của sử liệu Phật giáo. Tuy nhiên, trong ký ức của người dân nơi đây, ngôi Báo Ân còn gọi là chùa Cả vì trước đây quy mô chùa rất lớn.

Theo truyền thuyết của người dân trong vùng cho rằng, chùa Báo Ân có từ thời Lý gắn với giai thoại về Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Bà vốn là người sùng mộ đạo Phật, vì thế bà thường nghiên cứu giáo lý Phật giáo và phát tâm làm việc thiện, nhất là xây dựng tu bổ nhiều ngôi chùa trong vùng. Tương truyền, bà đã xây dựng khoảng 150 ngôi chùa lớn nhỏ, trong đó có ngôi chùa Báo Ân – quê hương của mình. Trong lịch sử, năm 1068, hương Thổ Lỗi đổi thành hương Siêu Loại nên tên chùa Báo Ân đổi thành chùa Siêu Loại. Song, thuở ban đầu có thể ngôi chùa này được xây dựng với quy mô vừa phải. Đến thời Trần, ngôi chùa mới được Đệ nhị tổ Pháp Loa đại trùng tu và mở rộng quy mô lớn “với 36 nóc nhà, 99 gian, 2 lớp tam quan nội ngoại. Chùa là nơi thờ Phật kiêm hành cung của nhà vua nên được gọi là chùa Cả” [1]. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đại Đồng [2] qua khảo cứu cho biết nhiều thông tin quan trọng về ngôi chùa này như sau: Chùa Báo Ân xưa thuộc hương Siêu Loại, nay thuộc xã Dương Quang, huyện Gia Lâm. Ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý Công Uẩn hoặc thời vua Lý Thánh Tông nhưng không được ghi chép trong hai bộ chính sử quan trọng là Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư. Theo tác giả, ngôi chùa có thể được xây dựng vào năm 1115 với hai chi tiết: 1. Năm 1097, Linh Nhân Hoàng Thái Hậu làm nhiều chùa Phật; 2. Năm 1115, vua không có con trai nên lập đàn chay, dựng hơn 100 chùa ở các nơi để cầu tự.

Theo kết quả khảo cổ học, chùa Báo Ân được xây dựng vào thời Trần. Khảo sát thực địa gò đất này vẫn nhận thấy bề mặt gò cao hơn khu vực xung quanh từ 0,5 – 1m, với tổng diện tích khoảng hơn 15.000 m2. Đáng tiếc là từ cách đây 40 năm gò đất đã bị khai thác đất, xây lò gạch. Toàn bộ bề mặt gò đã bị san bạt, có chỗ bị đào sâu từ 1,5 – 2 m. Nơi còn khá nguyên vẹn tập trung ở phía Bắc của gò. Qua khảo sát cho thấy xuất lộ ngay bề mặt dấu tích của móng kiến trúc và ống thoát nước đặc trưng thời Trần. Trong quá trình canh tác và đào đất làm gạch, nhân dân trong vùng đã thu lượm được nhiều vật liệu và trang trí kiến trúc thời Trần, Lê. Sưu tập hiện vật này hiện đang được lưu giữ tại chùa Báo Ân và chùa Sủi [3].

Đại tạng kinh là tập hợp kinh điển Phật giáo và việc tổ chức thực hiện là một công việc hết sức tỉ mỉ và khoa học. Chẳng hạn về tiêu chuẩn kinh điển Phật giáo, về tổ chức thẩm định, ai thẩm định, ai phê duyệt,…

Và những gì được ghi chép trong Tam tổ thực lục và Thanh Mai Viên Thông tháp bi thấy rõ hơn với nhiều chi tiết rất quan trọng của Đệ nhị tổ Pháp Loa với việc xây dựng chùa Báo Ân trở thành một chốn tùng lâm quan trọng của Phật giáo Trúc Lâm: vào năm 1299, vua Trần Nhân Tông từ phủ Thiên Trường vào Yên Tử tu khổ hạnh. Khi qua chùa Báo Ân, sư trụ trì là Hòa thượng Trí Thông tự đốt tay mình. Vua vào thì sư Trí Thông đặt chỗ cho Ngài ngồi rồi lạy mà nói: “Thần tăng đốt đèn đó”; Năm 1306, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã giao cho Tôn giả Pháp Loa làm chủ giảng ở chùa Báo Ân và đến năm 1308, Tôn giả Pháp Loa chính thức được giao trụ trì chùa Báo Ân, làm Đệ nhị tổ Phật giáo Trúc Lâm. Tam tổ thực lục chép khá chi tiết về việc kế đăng của Đệ nhị tổ Pháp Loa như sau: “Năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, vào ngày mùng một tháng giêng, tôn giả Pháp Loa phụng mệnh làm người nối pháp trụ trì chùa Siêu Loại ở giảng đường Cam Lộ. Bắt đầu buổi lễ, mọi người làm lễ ở Tổ đường; đại nhạc được tấu lên, các loại danh hương được   xông đốt… Điều ngự Giác Hoàng đưa Pháp Loa vào lạy ở Tổ đường, xong cùng xuống trai đường để ăn điểm tâm sáng. Xong buổi tiểu thực, nhạc tấu lên, trống lớn nổi dậy, đại chúng chư tăng được triệu tập cùng lên pháp đường: Lúc đó vua Anh Tông đã ngự giá tới chùa; ngôi chủ khách đã phân xong, mọi người cùng ngồi. Vua Anh Tông lúc đó đóng vai một vị đàn việt lớn của Phật pháp, ngồi vào ghế khách ở pháp đường; quốc phụ Thượng Tổ (tức Huệ Võ vương Quốc Chấn) cùng với các quan cùng đứng dưới sân. Điều ngự thăng đường thuyết pháp. Thuyết pháp xong Điều ngự rời pháp tòa, dắt Pháp Loa cho ngồi trên pháp tòa ấy, rồi đứng chắp tay đối diện Pháp Loa làm lễ thăm hỏi. Sau khi Pháp Loa đáp bái lại. Điều Ngự trao pháp y cho Pháp Loa khoác vào. Bấy giờ Điều Ngự ngồi xuống ghế khúc lục một bên để nghe Pháp Loa thuyết pháp. Xong rồi, Điều Ngự đem Sơn Môn (Giáo hội) Yên Tử, và chùa Siêu Loại ủy cho Tôn giả Pháp Loa kế thế trụ trì, làm tổ thứ hai của phái Trúc Lâm” [4].

Ngay khi Tôn giả Pháp Loa trụ trì chùa này, vua Trần Anh Tông đã cúng dường cho chùa 100 mẫu ruộng đồng thời cấp cả người cày cấy để thu hoa lợi phục vụ các nghi lễ trong chùa; năm 1312, nhà vua lại cúng 5 vạn quan tiền để Đệ nhị tổ bố thí cho người nghèo. Sau đó lại cúng tiếp 500 mẫu ruộng cho chùa. Và năm 1313, Đệ nhị tổ Pháp Loa chính thức xây dựng lại chùa Báo Ân. Sự kiện này đã được Hoàng thái hậu hết lòng ủng hộ bằng việc cúng dàng 300 mẫu ruộng cho chùa. Đến năm 1314, công việc xây dựng chùa hoàn thành với kết cấu kiến trúc đồ sộ với nhiều công trình liên hoàn như Phật điện, nhà tăng, gác kinh,… Thượng hoàng Trần Anh Tông nhân đó ban cho chùa 500 hòm Đại tạng,… Với sự quan tâm của vương triều Trần, đặc biệt là Hoàng thái hậu, Thượng hoàng Trần Anh Tông, chùa Báo Ân thực sự trở thành một trung tâm sinh hoạt Phật giáo của triều đình, của Phật giáo Trúc Lâm. Điều này cũng dễ hiểu vì Phật giáo Trúc Lâm do Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập và truyền cho Tôn giả Pháp Loa, đồng thời chùa Báo Ân còn là nơi ghi dấu thời gian trụ trì và đặc biệt là nơi diễn ra nghi lễ truyền thừa của Phật giáo Trúc Lâm. Ngoài ra, chùa Báo Ấn không chỉ là nơi quy y của những người trong vương triều mà còn cả nhân dân. Họ thường đến chùa nghe Đệ nhị tổ giảng pháp rất đông mỗi khi chùa mở pháp hội hay họ đến sinh hoạt tín ngưỡng.

Theo ghi chép, Đệ nhị tổ Pháp Loa ở chùa Báo Ân hay các tổ đình khác thuộc Sơn môn Trúc Lâm thường giảng kinh Kim cương, Lăng Nghiêm, Viên Giác, nhất là kinh Hoa Nghiêm. Tam tổ thực lục cho biết, Đệ nhị tổ Pháp Loa giảng bộ kinh này từng hồi một, có nghĩa là Ngài giảng cụ thể và chi tiết cho môn đồ để hiểu đúng bản chất của vạn pháp. Đồng thời Đệ nhị tổ thường giảng các bộ ngữ lục như: Truyền đăng lục [5], Tuyết Đậu ngữ lục [6], Đại Tuệ ngữ lục [7], Thượng sĩ ngữ lục, Thiền lâm thiết chủy ngữ lục. Mỗi buổi giảng thường có hàng nghìn người tham dự nghe pháp. Ngoài ra, đệ Nhị tổ cũng thường đến các chùa khác giảng pháp, chẳng hạn vào năm 1313, Ngài đến chùa Vĩnh Nghiêm định chức Tăng đồ và giảng pháp; hay năm 1312, vua Anh Tông mời Ngài vào cung Tư Phúc giảng Đại Tuệ ngữ lục và hướng dẫn tu Bồ tát hạnh,… Có thể thấy, ngoài chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) là trung tâm hoằng pháp và đào tạo tăng tài cho Phật giáo Trúc Lâm, chùa Báo Ân là trung tâm quan trọng thứ hai. Bởi ngôi chùa không xa kinh đô, lại có đường giao thông thuận lợi lên Yên Tử hay về Thiên Trường. Do đó, ngôi chùa đã gắn bó chặt chẽ với công cuộc hoằng pháp của Đệ nhị tổ Pháp Loa dưới thời Trần.

ĐỆ NHỊ TỔ PHÁP LOA VỚI VIỆC BIÊN SOẠN VÀ SAN KHẮC KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO

Đệ nhị tổ Pháp Loa trước tác rất nhiều, trong đó có thể kể đến Đoạn sách lục, Tham thiền yếu chỉ, Kim cương tràng đà la ni kinh chú, Pháp hoa kinh khoa sớ, Thạch Thất mỵ ngữ, Pháp sự khoa nghi, Lăng già kinh khoa sớ, Hộ quốc nhân vương nghi quỹ, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Song phần lớn đã bị thất lạc, chỉ còn bộ Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục do Ngài biên tập và một phần Đoạn sách lục, một phần Tham thiền yếu chỉ in trong bộ Tam tổ thực lục (thế kỷ XVIII). Ngoài ra, theo công trình Thơ văn Lý – Trần, Ngài còn ba bài thơ in trong Việt âm thi tập và Trích diễm thi tập. Vì thế, ở bộ Tam tổ thực lục chuyển tải bốn bài luận của Ngài là Khuyết xuất gia tiến đạo ngôn, Trúc Lâm đại tôn giả thượng tạo thích sư thị chúng, Thượng thừa tam học khuyến chúng phổ thuyết và Yết minh học thuật [8]. Mà nội dung chủ yếu là khuyên người xuất gia phải làm thế nào được giải thoát; phải hiểu thế nào là về Tâm, về Phật về Pháp (tư tưởng Tức Tâm tức Phật); phải nắm rõ thế nào là Tam vô lậu học (Giới – Định – Tuệ); đồng thời Tôn giả hướng dẫn người tu hành theo Bồ tát hạnh. Chẳng hạn bài luận Khuyết xuất gia tiến đạo ngôn của Ngài khuyên con người nên xuất gia để không vướng vào nghiệp báo. Quan trọng là phải tìm được thầy chân chính mới có được sự hiểu biết chân chính về Phật pháp và có được sự tinh tấn trong tu hành,… Nhìn chung, các tác phẩm của Ngài có “phương hướng cơ bản là làm điều có lợi cho chúng sinh, cứu độ chúng sinh theo tư tưởng giác tha” [9]. Những bộ kinh luận mà Đệ nhị tổ Pháp Loa giảng giải cho môn đồ đều thuộc hệ thống kinh điển Bắc tông, hay nói cách khác là kinh điển Phật giáo Đại thừa.

Quá trình san khắc kinh điển Phật giáo mà Đệ nhị tổ Pháp Loa tiến hành được ghi chép như sau: Năm 1311, Tôn giả Pháp Loa phụng chiếu tiếp tục san khắc bộ Đại Tạng. Tuy nhiên, trước đó vào năm 1295, triều Trần nhận được bộ Đại tạng kinh đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu hành. Có lẽ đây là lần đầu tiên in Đại tạng kinh. Do đó, vào năm 1311, Đệ nhị tổ Pháp Loa in là lần thứ 2, hoặc lần trước chưa in xong, Ngài tiếp tục. Theo nghiên cứu của PGS. Nguyễn Duy Hinh, Đại tạng kinh được trích máu in chép, khắc thành ván in với số lượng lớn. Và “Đại tạng chữ Hán đã chiếm thế thượng phong cũng như mối quan hệ trực tiếp với các nhà sư Trung Quốc cũng tăng cường rõ rệt” [10].

Đại tạng kinh là “kinh điển Bắc tông bằng chữ Hán, chủ yếu được dịch từ tiếng Sanskrit, một phần từ tiếng Pali hoặc tiếng Hồ (Tây Vực). Tam tạng kinh điển Phật giáo bằng chữ Hán khi được biên tập gọi là Đại tạng kinh. Theo sưu tập của bộ Khai Nguyên thích giáo lục (713-714), Đại tạng kinh gồm 1.076 bộ, 5048 quyển; trong đó, Tiểu thừa 330 bộ, 1.762 quyển. Đại thừa 638 bộ, 2745 quyển. Hiện tại, Đại tạng kinh được xác định gồm 1.482 bộ, 5.702 quyển, trừ đi những bản dịch trùng lặp, còn 4.400 quyển. Trong đó, Tiểu thừa có 1.400 quyển, Đại thừa có 3.000 quyển, trùng hợp với 2 triệu rưỡi tụng Sanskrit. Trung Quốc đang biên tập bộ Trung Hoa Đại tạng kinh hơn 2 vạn 3 nghìn quyển” [11].

Ngoài ra, ngày nay vẫn hiện tồn bộ Đại tạng kinh Tây Tạng. Đây là bộ Đại tạng lưu hành ở Tây Tạng và hầu hết được dịch từ tiếng Sanskrit. Bộ này bao gồm Chính tạng (Cam châu nhĩ): chủ yếu là những lời dạy của Đức Phật Thích Ca. Chính tạng chia thành Kinh, Luật và Mật chú; Phó tạng (Đan châu nhĩ) ghi những luận giải của thế hệ các tăng sĩ Tây Tạng và Tạp Tạng (Tùng băng) bao gồm những trước tác của tín đồ Phật giáo Tây Tạng nhưng không thuộc luận, đó là các tác phẩm về triết học, thi ca, thiên văn, lịch pháp,… điều này cho thấy vấn đề vô cùng phức tạp của quá trình hình thành và truyền bá của kinh điển Phật giáo ở mỗi khu vực. Đây là kết quả của một quá trình dài của công cuộc “thỉnh kinh”, “cầu pháp” của nhiều thế hệ tăng sĩ, giáo đoàn của nhiều quốc gia, khu vực trong lịch sử.

Như vậy, Đại tạng kinh là tập hợp kinh điển Phật giáo và việc tổ chức thực hiện là một công việc hết sức tỉ mỉ và khoa học. Chẳng hạn về tiêu chuẩn kinh điển Phật giáo, về tổ chức thẩm định, ai thẩm định, ai phê duyệt, phân chia chương mục,… Bởi trong thực tế, rất nhiều bộ kinh sau khi thẩm định không phải do Phật thuyết giảng và đương nhiên không được đưa vào Đại tạng. Hoặc có bộ Đại tạng được phân chia theo bộ Bát Nhã, Bộ Hoa Nghiêm, Bộ Bảo Tích,… Ngoài ra còn là việc phân số thứ tự Đại tạng làm sao để người tra cứu thuận tiện nhất. Bên cạnh việc san khắc Đại tạng, thì Đệ nhị tổ còn biên soạn nhiều bộ sách Phật giáo dựa trên Đại tạng. Chẳng hạn vào năm 1312, nhân được vua Anh Tông mời vào cung giảng Đại Tuệ ngữ lục, Ngài đã biên soạn bộ Hộ quốc nhân vương nghi quỹ để giúp vua Anh Tông “quán triệt đường lối tu học và cách hành xử của các bậc đế vương sao cho có ích lợi đối với dân với nước” [12]. Hoặc vào năm 1322, tại chùa Báo Ân, Ngài cho xây dựng 3 cơ sở trong đó có Phật điện tàng kinh và Tăng đường. Mời hai vị sư huynh là Tông Canh và Bảo Phác về chùa Siêu Loại (tức chùa Báo Ân) in 5.000 bản Tứ phần luật để cho các tăng sinh tu học.

Tạm kết: Theo hành trạng của Trúc Lâm tam tổ có thể thấy, nếu như Phật hoàng Trần Nhân Tông xuất gia với vị thế của một người đứng đầu vương triều, Đệ tam tổ Huyền Quang là một Nho sĩ xuất sắc, từ quan xuất gia thì Đệ nhị tổ Pháp Loa là một người dân thường sinh ra để đi tu. Cả cuộc đời của Ngài đã hiến dâng cho đạo pháp và để lại cho Phật giáo Việt Nam nhiều thành quả mà ít người tu hành nào đạt được sau này. Việc biên soạn và san khắc kinh điển Phật giáo nhằm để phát triển Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Trúc Lâm nói riêng của Đệ nhị tổ vô cùng xuất sắc. Chùa Báo Ân từ một ngôi chùa nhỏ đã trở thành một trung tâm hoằng pháp quan trọng của Phật giáo Trúc Lâm. Với các bộ kinh được Ngài thuyết giảng như Kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cương, Kinh Lăng Nghiêm, và nhất là các bộ Ngữ lục được Ngài chú trọng giảng dạy cho tín đồ đã cho thấy sự đặc sắc Phật giáo thời kỳ này. Trên phương diện xây dựng, có thể nói chùa Báo Ân là một điểm nhấn cho sự “đầu tư” của vương triều Trần đối với Phật giáo. Đặc biệt hơn, chùa Báo Ân là nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của Phật giáo Trúc Lâm, nơi Tôn giả Pháp Loa trụ trì, nơi truyền đăng Đệ nhị tổ Phật giáo Trúc Lâm, nơi Đệ nhị tổ Pháp Loa biên soạn, san khắc, ấn tống kinh điển Phật giáo nhằm phổ rộng tinh thần từ bi, nhập thế của Phật giáo Việt Nam.

 

Chú thích:

* PGS.TS. Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Tôn giáo.

** ThS. Nguyễn Văn Quý, Viện nghiên cứu Tôn giáo.

[1] Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Ban Văn hóa trung ương & Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2020), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phát huy tinh thần và biểu tượng Phật giáo qua sản phẩm làng nghề truyền thống Việt Nam, Hà Nội, tr.32.

[2] Nguyễn Đại Đồng (2020), “Chùa Báo Ân trung tâm hoàng pháp thế kỷ XIV”, Nguyệt san Giác ngộ, ngày 23/10.

[3] Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Ban Văn hóa trung ương & Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2020), Sđd, tr.30.

[4] Đức Nhuận (2009), Đạo Phật và dòng sử Việt, Nxb. Phương Đông, tr.319-320.

[5] Truyền đăng lục là tên gọi tắt của bộ Cảnh Đức truyền đăng lục do Đạo Nguyên biên soạn vào năm Cảnh Đức (1004-1007), gồm 30 quyển, chép 52 thế hệ của Thiền tông, kèm theo ngữ lục là 951 người.

[6] Tuyết Đậu ngữ lục do sư Tuyết Đậu Trùng Hiển (980-1052) tông Vân Môn biên soạn.

[7] Đại Tuệ ngữ lục do sư Tông Cảo (1089-1163) tông Tào Động biên soạn.

[8] Xin xem thêm tại: Thích Thanh Từ (2008), Thiền sư Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, phần phụ, Thiền sư Pháp Loa.

[9] Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb. Tôn giáo và NXB. Từ điển bách khoa, tr.453.

[10] Nguyễn Duy Hinh (2009), Sđd, tr.137.

[11] Hoàng Tâm Xuyên (1989), Lịch sử triết học Ấn Độ, Thương vụ Ấn thư quán xuất bản, Bắc Kinh, tr.169.

[12] Hà Thúc Minh (2002), Triết học Ấn Độ, NXB. TP. Hồ Chí Minh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *