Hòa thượng Thích Minh Đức, một tấm gương sáng về sự tu hành (TT.Thích Tâm Vị – ĐĐ.Thích Nguyên Như)

          Hòa thượng Thích Minh Đức, thế danh là Nguyễn Khắc Dần, sinh năm 1902, trong một gia đình nho phong gia giáo, tại làng Hiệp Phổ, xã Đức Hạnh, huyện Nghĩa Hành – tỉnh Quảng Ngãi.

          Thân sinh của Hòa thượng là cụ Nguyễn Quang Huy, tọa chủ chùa Khánh Long thuộc thôn Hiệp Phổ, huyện Nghĩa Hành – tỉnh Quảng Ngãi. Cụ bà là Phan Thị Lễ.

          Từ thuở thiếu thời, Hòa thượng đã tỏ ra đức tính từ hòa, tư chất thông minh. Ngài được thân sinh cho theo học Nho văn, chẳng bao lâu ngài đã tinh thông những bộ sách căn bản của Nho học. Nhưng có lẽ do túc duyên nhiều đời chí xuất trần đã thôi thúc. Năm lên 17 tuổi, Ngài quyết chí xin song thân xuất gia tu học tại chùa Sắc tứ Phước Quang, thuộc xã Phú Thọ, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Ngài thọ giáo với đại lão Hòa thượng Hoằng Tịnh và được ban pháp tự Đạo Thứ.

          Suốt thời gian tu học, ngài rất tinh cần trau dồi kinh luật, sớm nhận diện nỗi đau khổ của kiếp người và trọng trách lý tưởng hàng Như Lai sứ giả. Phương tiện giáo hóa chúng sinh của bậc đại thừa Bồ tát. Ngài đã học thêm về ngành Đông y không ngoài mục đích cứu đời khai đạo. Ngài rành mạch về các môn trị liệu y phương minh, áp dụng thành công một cách rực rỡ, phương tiện giáo hóa môn đồ.

          Năm 1933, vào lúc 32 tuổi, ngài thọ tam đàn cụ túc tại Tổ đình Phước Quang, đàn giới này do ngài Tăng cang ở chùa Chúc Thánh – Quảng Nam làm giáo thọ. Ngài được ban pháp hiệu là Thích Minh Đức.

          Năm 1940, chư Tăng và Phật tử thuộc huyện Nghĩa Hành – tỉnh Quảng Ngãi, cung thỉnh Ngài trở về trụ trì Tổ đình Long Bửu thuộc thôn Xuân Vinh, xã Hành Đức, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, cũng trong năm này, Ngài được công cử làm Hội trưởng Hội Phật giáo Nghĩa Hành.

          Năm 1945, cùng với cả nước hưởng ứng lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngài tham gia phong trào chống Pháp, gia nhập Đảng Lao động Việt Nam.

          Năm 1946, Ngài nhận chức Hội trưởng Phật giáo cứu quốc huyện Nghĩa Hành.

          Năm 1954, Hiệp định Genève ký kết, Hòa thượng lui về tu niệm, trụ trì chùa Long Bửu. Thời gian này, Ngài phát triển ngành Đông y và thâu nhận môn đồ hàng đệ tử xuất gia, hiện nay đều là các vị trụ trì ở các tỉnh. Hòa thượng Thích Minh Đức có các vị đệ tử như: Hòa thượng Viên Lâm (chùa Quan Âm – Quảng Ngãi), HT Như Nghĩa (chùa Liên Hoa – Q4 – TP.HCM), TT. Thích Tâm Vị (chùa Linh Phước – Đà Lạt), TT. Thích Giải Hiền (chùa Vĩnh Nghiêm – Thanh Hóa), TT. Thích Tâm Thiện (Đạo tràng Cát Trắng – Hoa Kỳ), TT. Thích Giải Điền (Quảng Ngãi), v.v…

          Năm 1957, Tổng hội Phật giáo Trung phần bổ nhiệm Ngài trụ trì chùa Linh Phước – Đà Lạt, thuộc chi hội Phật giáo Trại Mát. Hòa thượng là vị trụ trì đời thứ tư của chùa Linh Phước – Đà Lạt. Hòa thượng không quản ngại khó khăn, củng cố các khuôn giáo hội trực thuộc. Chủ trương và xây dựng các khuôn giáo hội: chùa Pháp Hoa (Sào Nam – Đà Lạt), chùa Tịnh Quang (Trại Mát – Đà Lạt), chùa Linh Thứu (Chi Lăng – Đà Lạt), chùa Quan Âm (Khe Sanh – Đà Lạt)…

          Năm 1973, Giáo hội tỉnh Quảng Đức (tỉnh Đắc Nông ngày nay) khai giới đàn truyền giới cung thỉnh Ngài đương vi đường đầu Hòa thượng.

          Năm 1982, Đại hội Phật giáo Việt Nam thành lập Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Lâm Đồng, đã suy cử Ngài vào hàng giáo phẩm chứng minh Tỉnh hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Lâm Đồng.

          Trong suốt thời gian tu tập và hành đạo, Ngài là một cao Tăng thạc đức, dùng y học để cứu đời, hành đạo, thuyết pháp độ sanh, uy danh xuất chúng, đức độ của Ngài lan truyền rộng khắp không những chỉ dừng lại ở tỉnh Lâm Đồng, Quảng Ngãi mà còn tỏa khắp vùng đất Nam Bộ, ai ai cũng kính, hàng đệ tử được Ngài quy y rất đông tín đồ, tại gia và rất nhiều vị xuất gia cầu đạo. Hàng đệ tử đã noi theo gương ngài sống đời giản dị, thanh bần của nếp sống đạo hạnh.

          Mặc dù công việc đa đoan của giáo hội, Ngài không bao giờ xao lãng việc nhiếp hóa độ chúng. Trong những mùa an cư kiết hạ, Ngài dành nhiều thời gian để giảng dạy cho hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia. Ngài chú trọng vào pháp môn Tịnh độ, trì danh niệm Phật. Và ngài thường nhắc nhở hàng xuất gia cũng như tại gia, nghiêm trì giới luật, thể hiện đạo phong những nếp sống gương mẫu của các bậc Tăng già tiền bối.

          Hình ảnh của Ngài như một hiện thân Quan Âm cứu khổ. Khi còn sinh thời, Ngài thường hay trì tụng kinh Phổ Môn. Ngài đã phát nguyện trì tụng kinh Phổ Môn 500 biến, cho đến trước lúc từ giã cõi trần, Ngài vẫn tinh tấn trì tụng cho đến hết. Hình ảnh ban vui cứu khổ được thể hiện qua cử chỉ hành động của ngài. Nhất là những đêm khuya khoắt khi mọi người đã yên giấc ngủ, có người đến cầu thỉnh Ngài đi cứu bệnh nhân. Ngài hoan hỷ đến ngay không một chút từ nan quản ngại.

          Cuối năm 1984, linh cảm của Ngài dường như biết trước sựra đi, cho nên Ngài rời chùa Linh Phước vềlại Tổđình Long Bửu – Quảng Ngãi đểcùng Tăng ni, Phật tửđón một mùa xuân nơi quê hương chốn tổ. Vào đêm ngày 18 tháng giêng, năm Ất Sửu 1985, Ngài kêu gọi các hàng đệtửxuất gia vàtại gia của Tổđình Long Bửu quy tụvềđểdặn dòlần cuối, lời di chúc lại cho chùa Linh Phước TP. ĐàLạt. Hòa thượng nhắn nhủ13 điều khuyên người niệm Phật, cóghi lại bằng băng cassette. Sau đó, Tăng ni và Phật tửtụng kinh A Di Đà, niệm Phật đểtiễn biệt ngài ra đi.

          Vào lúc 03 giờ ngày 19 tháng giêng năm Ất Sửu (nhằm ngày 08/02/1985), chư Tăng ni và Phật tửđứng xung quanh bên giường Ngài đểniệm Phật, ánh mắt không rời hình Phật A Di Đàtreo trên tường trước mặt Ngài, miệng vẫn niệm Phật theo đại chúng. Trong lúc đại chúng niệm Phật, Ngài bảo vịtrưởng tửđem bức ảnh Phật A Di Đàđến cho Ngài, hai tay nâng hình Phật vànhẹnhàng úp ảnh Phật A Di Đàlên mặt rồi buông hơi thởcuối cùng, xảbỏbáo thân thâu thần tịch diệt. Hòa thượng trụthế84 năm và52 hạlạp. Nhục thân ngài được tôn trí trong bảo tháp phụng lập tại khuôn viên Tổ đình Long Bửu – tỉnh Quảng Ngãi.

          Đến tháng 02-2010, chư Tăng và Phật tử tại hai chùa: chùa Linh Phước – tỉnh Lâm Đồng và Tổ đình Long Bửu – tỉnh Quảng Ngãi xây dựng lại bảo tháp mới 7 tầng, cao 20m bằng đá Thanh Hóa.

          Vào ngày 11 tháng 01 năm 2011 (nhằm ngày 08 tháng chạp năm Canh Dần) lễ di dời hài cốt vào tháp mới, trong khuôn viên Tổ đình Long Bửu – thôn Xuân Vinh – huyện Nghĩa Hành – tỉnh Quảng Ngãi. Nhưng khi khai quật phần mộthìnhục thân của Hòa thượng vẫn còn nguyên vẹn sau 26 năm nằm trong lòng đất. Chiếc kim quan lúc an táng ngài bây giờđãbiến thành đất, không còn thấy dấu vết, mà hình hài của người vẫn còn nguyên nằm im bất động như tựthuởnào. Ngài đã lưu lại xá lợi sau 26 năm chôn cất. Đây là kết quảbao nhiêu năm tu tập chuyên trìniệm Phật vàhoằng dương chánh pháp. Giờđây, hình ảnh nhục thân của Ngài lưu lại đãlàm cho hàng Tăng ni Phật tửthật xúc động, làm cho tín tâm càng thêm kiên cốtrên con đường tu tập giác ngộgiải thoát. Đây như là một tấm gương sáng ngời về sự tu tập của ngài, có giá trị về thân giáo. Một minh chứng có thật về sự nghiêm trì giới luật, niệm Phật vãng sanh, giáo hóa chúng sanh, là bậc mô phạm đạo hạnh chốn tòng lâm.

TT THÍCH TÂM VỊ
ĐĐ THÍCH NGUYÊN NHƯ