Bậc cổ đức dạy rằng hương thơm của các loài hoa, dù là hoa chiên đàn cũng không bay ngược được chiều gió mà chỉ hương của người đức hạnh mới phảng phất khắp muôn phương, câu nói mang tính nhân văn cao sâu thấm đẫm tâm kính thượng, trân quý nét đẹp văn hóa, đạo đức lâu đời qua chiều dài lịch sử phát triển, kế thừa liên tục.
Phật giáo truyền vào phương Nam
Dòng Thiền Lâm Tế – Chúc Thánh không chỉ ảnh hưởng nơi phố cổ Hội An hay tại Quảng Nam lúc ban đầu mà còn mở rộng ra khắp các tỉnh miền Trung và miền Nam Việt Nam sau hơn 300 năm tính từ năm 1679 đến nay (2020).
Như ngọn gió lành đẩy mạnh Phật giáo vào miền Nam nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long – Đồng Nai và Gia Định từ năm 1679 là nhờ hai lợi điểm:
– Thứ nhất, những người di dân thuộc nhiều diện khác nhau từ miền Trung, được chúa Nguyễn cho vào khai cơ lập nghiệp, họ mang theo tín ngưỡng Phật giáo như là đạo sẵn có từ lâu. Công cuộc di dân lúc đó, ngày nay ta quen gọi là đi vùng kinh tế mới. Đối với đa số người, chỗ mới như đất dụng võ, họ ra sức làm ăn nên chẳng bao lâu đã trở nên khá giả, đời sống kinh tế được ổn định. Khi người dân đã an cư, bấy giờ họ nghĩ đến tín ngưỡng mà đa phần tin Phật giáo.
– Thứ nhì, một số tướng sĩ nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh, từ bỏ Trung Quốc đi tìm sinh lộ mới; họ thà chết nơi núi sâu rừng vắng hay bỏ thân ở xứ lạ, quê người, hơn là phò chúa mới, nên quyết định vượt biển sang Việt Nam tỵ nạn chính trị. Lúc bấy giờ, tình hình chính trị tại Việt Nam cũng không ổn định, nên đất nước phải chia hai phần: Miền Bắc do chúa Trịnh trị vì, miền Nam do chúa Nguyễn cát cứ một phương. Nhưng thế lực của chúa Nguyễn mạnh hơn, phương tiện thuyền bè tới lui với Việt Nam cũng thuận tiện hơn. Đoàn người tỵ nạn theo đường biển vào Đàng Trong xin tỵ nạn chính trị và thần phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn sẵn kế hoạch và chủ trương mở rộng bờ cõi về phía Nam, và đây là cơ hội thuận tiện để đưa người tỵ nạn vào vùng đất mới sinh sống.
– Môn hạ Tổ Minh Hải – Pháp Bảo cũng theo dấu chân lưu dân xuôi Nam lập chùa Tập Phước tại Gia Định như các Ngài Thiệt Bảo, Toàn Tánh – Chánh Đắc, Pháp Nhân – Thiên Trường, Chương Tâm – Phước Thường, Ấn Thập – Huệ Thành, Chân Lý – Hoằng Trí… là những vị kế thế trụ trì Tổ đình Tập Phước.
Vào năm 1773 (Quý Tỵ), có hai Ngài Toàn Hiệu – Gia Bình và Gia Tiền đến huyện Thuận An lập chùa Thiên Tôn. Năm 1839, Ngài Toàn Tánh – Chánh Đắc kế thừa trụ trì chùa Hội Khánh (ngài Đại Ngạn – Từ Tấn khai sơn năm 1741), sau khi ngài Chân Kính – Minh Huệ (1741-1839) viên tịch, do không có đệ tử kế thừa nên bổn đạo đã thỉnh ngài Toàn Tánh – Chánh Đắc từ chùa Tập Phước, Gia Định, về kế thế trụ trì và kể từ đó chùa Hội Khánh chính thức truyền thừa theo bài kệ của Tổ Minh Hải – Pháp Bảo.
Những vị danh tăng của dòng thiền Lâm Tế – Chúc Thánh của thế kỷ XX như các Ngài: HT Khánh Anh (1895-1961), HT Thích Quảng Đức (1889-1963), HT Thích Thiện Hoa (1918-1973), HT Thích Hành Trụ (1904-1984), HT Thích Huyền Quang (1920-2008), v.v.
Thiền phái Chúc Thánh truyền ra hải ngoại
Hương giải thoát của Tổ đức mãi sáng tỏa khắp không những chỉ một nước Việt Nam mà còn lan xa ra hải ngoại, xuyên lục địa qua nhiều lãnh thổ khắp thế giới.
Thời điểm 1975, cũng như những người di dân khác, người Việt lúc đầu gặp nhiều trở ngại về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo. Nhưng dần dần, họ cũng khắc phục được để ổn định đời sống sau một vài thập niên. Ở tham luận này, chúng tôi chỉ giới hạn Phật giáo Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh từ thập niên 70 của thế kỷ XX tới nay.
– Ở Mỹ có khoảng 2 triệu người Việt, sống rải rác hầu khắp các tiểu bang của Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ. Sau thời gian đầu vất vả, nay người Việt đã hội nhập vào xã hội mới, an cư lạc nghiệp và đời sống từ vật chất đến tinh thần tạm ổn định. Người Phật tử cũng đã dựng lập chùa chiền, tháp viện trang nghiêm để thờ phụng tổ tiên và Tam bảo. Nói chung, về đời sống tinh thần, điều hành, hướng dẫn tu tập cho giới Phật tử có khoảng từ 500-600 Tăng Ni lãnh đạo nhưng số lượng Tăng Ni thuộc Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh khá khiêm tốn.
* Tiểu bang California độ 10 vị, như HT Minh Dung (Đệ tử HT Thích Huyền Quang, đệ tứ Tăng Thống GHPGVNTN) lập chùa Quang Thiện ở Ontario thuộc Nam Cali; thuộc đời thứ 42, thế hệ thứ 9 Lâm Tế Chúc Thánh, HT Pháp Châu đời 44 (Đệ tử HT Thông Bửu chùa Quán Thế Âm – Saigon) lập chùa Việt Nam tại Garden Grove. CA, HT Thanh An đời 43, thế hệ thứ 10 (đệ tử HT Trí Hữu), cùng TT Thiện Tường lập An Tường Tự viện tại Oakland, CA, HT Huyền Dung đời 41 (đệ tử HT Trí Hải, chùa Bích Liên, Bình Định), lập Phật Quang thiền viện, HT Hành Đạo – Thị Uẩn – Thuần Phong (đệ tử HT Trí Minh, chùa Pháp Bảo – Hội An) lập chùa Phổ Đà tại Westminter, CA. Nhưng 4 vị sau đã lần lượt viên tịch, trong hiện tại (2020) vùng có người Việt định cư đông nhất này, chư tăng môn phái Chúc Thánh không còn bao nhiêu vị.
* Tại Atlanta, HT Hạnh Đạt đời 42, thế hệ thứ 9 dòng Lâm Tế Chúc Thánh (đệ tử HT Thọ Giác – Quảng Ngãi), trụ trì tu viện Kim Cang.
* Tại Texas, HT Chơn Điền đời 40, thế hệ thứ 7 dòng Lâm Tế Chúc Thánh (đệ tử HT Phổ Thoại Chùa Long Tuyền, Hội An) lập chùa Quan Âm, Houston.
* Tại Virginia, TT Đồng Điển đời 43, thế hệ thứ 10 dòng Lâm Tế Chúc Thánh (đệ tử HT Hành Trụ chùa Đông Hưng, Saigon) lập chùa Đông Hưng tại Mỹ
*Tại Chicago, HT Hạnh Tuấn đời 42, thế hệ thứ 9 dòng Lâm Tế Chúc Thánh (đệ tử HT Như Vạn chùa Phước Lâm, Hội An), trụ trì chùa Trúc Lâm (đã viên tịch) tại Chicago.
* Tại Washington state, TT Đồng Trung đời 43, thế hệ thứ 10 dòng Lâm Tế Chúc Thánh (đệ tử HT Hưng Từ chùa Pháp Hội Bình thuận) lập chùa Dược Sư tại Seattle…
Hiện nay tại Hoa Kỳ, môn phong pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh còn những vị như Trưởng lão HT Chơn Điền (94 tuổi), HT Minh Dung, HT Pháp Châu, HT Hạnh Đạt v.v… đều là những vị cao niên. Trong những năm qua, môn hạ Chúc Thánh tại Hoa Kỳ cũng hướng về nguồn cội mỗi năm tổ chức lễ húy nhựt Tổ sư Minh Hải khai sơn pháp phái tại những tự viện trong môn phái. Mặc dù địa bàn hoạt đông Phật sự duyên cách, nhưng đạo tình Thầy Tổ vẫn gần gũi đáng quý qua ngày lễ giỗ Tổ.
– Âu châu, người Việt có khoảng một triệu người, đông nhất là tại Pháp, theo nhiều diện từ sau đệ nhị Thế chiến. Đặc biệt, người Việt tại Âu châu còn dùng tiếng Việt khá phổ thông, ngay cả thế hệ thứ hai vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy. Một ưu điểm khác, người Phật tử Việt có niềm tin Tam bảo vững chắc hơn các nơi khác; vì vậy người xuất gia, nhất là thành phần trẻ nay đã trở thành là những Tăng ni lãnh đạo, không những với Phật tử Việt Nam mà họ còn hướng dẫn tinh thần cho người bản xứ như Pháp, Đức, Na Uy…
Phật giáo Việt Nam tại Âu châu có nhiều hệ phái và trong số đó có chư Tăng phái Chúc Thánh hoạt động Phật sự hữu hiệu và thành tựu tại nhiều quốc gia như:
* Tại Pháp, Hòa thượng Thích Huyền Vi (1926-2005), sanh quán Ninh Thuận (Phan Rang) là đệ tử HT Trí Thắng chùa Thiên Hưng Tháp Chàm, Ninh Thuận, với pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Đạo, pháp hiệu Huyền Vi, Lâm Tế Chúc Thánh đời 41, thế hệ thứ 8. Ngài theo học tại Phật học đường Ấn Quang, sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Phật học, Ngài đảm trách vai trò Đốc giáo kiêm Giám Viện PHĐ Ấn Quang (1955). Ngài du học Ấn Độ (1961) học tại Đại học Nalan Đà, sau những năm đèn sách Hòa thượng đạt học vị Tiến sĩ (Ph.D) triết học. Sau khi về nước (1972) Ngài được cung cử giữ chức Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Hoằng pháp; thành viên Hội đồng Viện Tăng thống (1974) GHPGVNTN.
Sau 1975, Ngài sang Pháp. Từ đó, Hòa thượng kết hợp kiều bào Phật tử lập chùa và thành lập Giáo hội Linh Sơn (1978). Giáo hội Phật giáo Linh Sơn có mặt hầu khắp tại các châu lục bao hàm châu Phi, lập thành nhiều chùa, cơ sở và tùng lâm Linh Sơn tại Rancon Limoges (Pháp), đào tạo tăng tài để duy trì và phát triển mạng mạch Phật pháp. Ngoài ra, Hòa thượng còn để lại những tác phẩm giá trị: Đường về xứ Phật (viết chung), Thiền Tứ oai nghi, Buddhist Doctrine, kinh Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, Les bases Fondamentales du Bouddhisme… Với sứ giả hoằng pháp, Hòa thượng đã hoàn thành sứ mạng của Như Lai, sắc thân tứ đại không còn nữa, nhưng pháp thân Ngài vẫn còn vang vọng và sự đóng góp thiết thực của Ngài để lại cho đời là vô giá.
* Tại Đức, Hòa thượng Như Điển – Giải Minh – Trí Tâm, sanh quán Duy Xuyên – Quảng Nam, đệ tử của Hòa thượng Thích Long Trí chùa Viên Giác – Hội An, với pháp danh Như Điển, pháp tự Giải Minh, pháp hiệu Trí Tâm đời 41, thế hệ thứ 8 phái Chúc Thánh.
Hòa thượng thọ Tỳ kheo năm 1971 tại chùa Quảng Đức – Thủ Đức, do HT Thích Trí Thủ làm Đàn đầu. Sau khi thọ giới xong, năm 1972, “Ngài sang Nhật du học và đậu bằng cử nhân giáo dục tại Đại học Teikyo – Tokyo” (Sđd. Đại đức Như Tịnh). Thi vào cao học, chuẩn bị học trình Cao học Phật giáo tại Đại học Risso (1977), Ngài thực hiện chuyến du lịch sang Đức, rồi được Phật tử mời đón và lời khuyên của các pháp hữu, Hòa thượng xin định cư tại Đức (1978). Việc định cư hoàn tất, Ngài lập Niệm Phật đường Viên Giác đầu tiên như cải gia vị tự, rồi dần dần tiến đến xây dựng chùa Viên Giác như hiện tại. Đại lễ khánh thành năm 1991 rất huy hoàng và trọng thể. Ngoài ra, Hòa thượng còn lập các Chi hội PGVN tại khắp nước Đức, và nhiều chùa có chữ Viên đứng đầu như Viên Giác, Trung tâm tu học tại Ấn Độ, Viên Đức Nam Đức, Viên Ý tại Italy, Viên Âm Hamburg, Niệm Phật đường Viên Giác tại Tiệp Khắc…
Phật giáo Việt Nam truyền ra hải ngoại, có hai vị thu nạp đồ chúng xuất gia rất đông, ngoài Thiền sư Nhất Hạnh, Hòa thượng Như Điển có tay nuôi dưỡng chúng, với những đệ tử tăng trẻ nay đủ khả năng điều hành Phật sự tại Đức và các quốc gia Âu Châu. Ngài cũng chuyên viết lách rất hăng say cho tới nay vừa sáng tác, dịch thuật độ 70 tác phẩm có trá trị ở nhiều khía cạnh khác nhau như: Giai nhân và Hòa thượng; Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, Vua là Phật, Phật là Vua… Ngài được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng năm 2008 tại chùa Viên Giác – Đức Quốc” (sđd. ĐĐ Như Tịnh).
Hòa thượng cấp học bổng cho hàng trăm sinh viên Tăng Ni du học tại nhiều quốc gia liên tục trong 19 năm từ 1994-2012. Nay những vị này đóng góp sở học của mình cho tiền đồ Phật giáo tồn tại lâu dài ở thế gian. Hòa thượng là Tổng Thư ký Hội đồng điều hành GHPGVNTN Âu châu qua nhiều nhiệm kỳ cho tới năm 2016, sau khi Hòa thượng Thích Minh Tâm viên tịch, Ngài cùng Hòa thượng Thích Tánh Thiệt, là đồng Chủ tịch GHPGVNTN Âu châu.
* Tại Na Uy (Norway), Hòa thượng Đồng Tâm – Thông Tịnh – Trí Minh là đệ tử Hòa thượng Thích Thị Châu, chùa Linh Sơn tại Phú Hòa, xã Nhơn Phú – Qui Nhơn, Việt Nam.
Hòa thượng pháp danh Đồng Tâm, pháp tự Thông Tịnh, pháp hiệu Trí Minh. Lâm Tế Chúc Thánh thế hệ thứ 10 – Phương trượng chùa Khuông Việt tại Na Uy.
Định cư tại Na Uy năm 1985, Ngài chú tâm vào hai việc: Thiết lập cơ sở và Tiếp tăng độ chúng hướng tới tương lai:
– Chùa Khuông Việt tại Oslo do Hội Phật giáo Việt Nam tại đây khởi xướng và công lao không ít của TT Quán Không xây dựng ban đầu (1984). Công việc dở dang thì người đã thuận thế vô thường vĩnh viễn ra đi vào năm 1995. Từ đây, TT Trí Minh được Hội cung thỉnh kế nhiệm trụ trì và tiếp tục hoàn tất các hạng mục xây chùa Khuông Việt còn dở dang, bề bộn…
Lễ Khánh thành chùa Khuông Việt được tổ chức long trọng năm 1999, và kể từ đó, chùa là một đạo tràng tu tập khởi sắc qua những buổi giảng pháp sinh động của Thượng tọa Viện chủ, nên thu hút hàng trăm Phật tử về chùa công quả học Phật.
– Đào tạo tăng tài: Các Phật tử tới chùa công quả và học Phật đó có một số thanh niên nam nữ ham thích, mến mộ nếp sống tu hành của người tăng sĩ, xuất gia với Thượng tọa theo truyền thừa của dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Hòa thượng Thích Trí Minh, pháp danh chữ ĐỒNG, cho đệ tử pháp danh chữ VẠN theo bài kệ truyền thừa của môn phái Chúc Thánh tại Bình Định. Ngài cho đệ tử pháp danh chữ Viên và pháp tự chữ Giác.
– Nước Úc đất rộng, người thưa; người Việt định cư khoảng độ 300.000 người mà phần đông họ sống tại NSW (Sydney) và Victoria (Melbourne). Về tôn giáo, đạo Phật đứng hàng thứ 3 sau Cơ Đốc giáo và Tin Lành.
Theo các nhà nghiên cứu “Từ thế kỷ XVIII-XIX đã xuất hiện một số tổ chức nghiên cứu về Phật học ở Anh, Nga, Pháp, Đức, v.v… Dưới sự truyền bá và cổ võ của các tổ chức này, một số đoàn thể tín ngưỡng, chùa viện bắt đầu được xây dựng …(*) Tiếp theo là người Việt đến định cư đông nhất vào thập niên 70 của thế kỷ trước. Về Phật giáo, chư tăng GHPGVNTN có mặt tại Úc thập niên 80, đó là 3 vị: TT Phước Huệ, TT Huyền Tôn và ĐĐ Bảo Lạc. Sau đó, có 4 vị : TT Như Huệ, ĐĐ Quảng Ba, ĐĐ Phước Nhơn, ĐĐ Nhật Tân. Những vị (7 vị) đều là nhân sự của GHPGVNTN từ quê nhà.
Chư Tăng phái Lâm Tế Chúc Thánh lúc đầu chỉ có 3 vị: TT Thích Huyên Tôn, TT Thích Như Huệ, ĐĐ Thích Bảo Lạc.
* Hòa thượng Như Kế – Giải Tích – Huyền Tôn (1928) nay đã 93 năm, sanh quán Quảng Ngãi, thuộc Lâm Tế Chúc Thánh đời 41, thế hệ thứ 8. Ngài là đệ tử HT Chơn Trung – Diệu Quang, chùa Viên Giác – Quảng Ngãi.
Ngài là giáo thọ sư các Phật học đường tại miền Trung và Trường Bồ Đề Saigon. Ngài giữ chức Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định từ 1967-1972; định cư tại Melbourne từ 1980. Sau khi đã định cư, Ngài lập Lăng Nghiêm Bảo Vương Tự và di dời đến 3 lần, nay dời về địa chỉ hiện tại vùng Addeer, Victoria.
HT Thích Huyền Tôn là thành viên Hội đồng Chứng minh và Tăng Giáo Trưởng Hội đồng Giáo phẩm Trung ương tại Úc – New Zealand.
Ngài không có đệ tử xuất gia nên bảo lãnh người cháu là Ni sư Thể Viên và công cử Trụ trì năm 2019; hiện giờ HT là Phương trượng chùa Bảo Vương.
– Hòa thượng Thích Như Huệ (1934-2016), sanh quán tại Cẩm Phô, Điện Bàn, Quảng Nam, là đệ tử Hòa thượng Thiện Quả, Tổ đình Chúc Thánh, đời 41, thế hệ thứ 8 Lâm Tế Chúc Thánh.
Hòa thượng vào Nam năm 1950, theo học tại Phật học đường Ấn Quang và tốt nghiệp Cao đẳng Phật học năm 1956. Trụ trì chùa Cấm Hà (1987), tham gia giảng sư đoàn của Tổng Hội (1958); Trụ trì chùa Tỉnh Hội PG Kontum (1961), Chủ tịch Ủy ban Tranh đấu bảo vệ Phật giáo tỉnh Quảng Nam (1963). Năm 1964, Ngài giữ chức Hội trưởng Tỉnh Hội Phật giáo Quảng Nam, Chánh Đại diện kiêm giảng sư tỉnh. Năm 1982, Ngài đến Úc. Năm 1983, HT là Phó Hội Chủ kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng pháp của Tổng Hội mới thành lập. Năm 1987, HT là Phó Viện trưởng Viện Hoằng Đạo kiêm Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Hoằng pháp. Năm 1999, Ngài là Hội Chủ từ 1999-2003. Từ năm 2003, Đại đức Viên Trí được công cử, Trụ trì chùa Pháp Hoa và Hòa thượng là Phương trượng Pháp Hoa Nam Úc.
Hòa thượng có đông đệ tử xuất gia đang lãnh đạo hoặc tu học tại Việt Nam cũng như hải ngoại, như HT Hạnh Đức, chùa Sơn Linh (VT), HT. Hạnh Thiện; Ni trưởng Khiết Minh (Thị Minh), trụ trì chùa Kim Liên (TPHCM), Ni Trưởng Huệ An, trụ trì chùa Bảo Đàm. Hòa Thượng Thích Như Huệ là một trong 4 thạch trụ của Phật giáo Quảng Nam: HT Như Vạn, HT Long Trí, HT Chơn Phát và Ngài, đã làm cho Phật giáo quê hương xứ Quảng một thời huy hoàng vẻ vang khắp nơi.
– Hòa thượng Đồng An – Thanh Nghiệp – Bảo Lạc, sanh quán Duy Xuyên, Quảng Nam, pháp danh Đồng An, pháp tự Thanh Nghiệp, pháp hiệu Bảo Lạc, đệ tử HT Thích Trí Hữu (hiệu Hương Sơn) nối pháp đời 43, thế hệ thứ 10 pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài thọ Tỳ kheo năm 1964 tại Đại giới đàn Việt Nam Quốc Tự, do HT Tịnh Khiết làm Đàn đầu. Hòa thượng theo học Trung đẳng Phật học tại Phật học đường Lưỡng Xuyên từ năm 1960-1963; đến Pháp nạn 63, Giáo hội Trung ương đưa lớp chúng này về Sài Gòn tham gia công cuộc tranh đấu của Phật giáo đòi bình đẳng tôn giáo dưới chế độ nhà Ngô. Ngài tham gia hoạt động tranh đấu tích cực nên bị chính quyền bắt vào đêm 20/8/63 tại chùa Xá Lợi và giam tù cho tới 1/11/63 mới được thả. Sau khi công cuộc tranh đấu thành công, Ngài thi đậu vào học lớp Cao đẳng tại Phật học viện Huệ Nghiêm từ năm 1964-1967. Sau khi rời Huệ Nghiêm, Ngài cùng 6 huynh đệ thành lập Lưu học xá Huyền Trang và chùa Huyền Trang vùng Ngã tư Bảy Hiền. Từ 1971-1974, Ngài dạy Việt văn và giáo thọ Phật học tại các Trường Bồ Đề Huỳnh Kim, Hạnh Đức và Phật học viện Huỳnh Kim. Cuối năm 1974, HT xuất dương du học tại Nhật Bản. Tại Nhật, HT là Tổng Thư ký chi bộ Phật giáo Việt Nam kiêm Chủ nhiệm đặc san Khuông Việt từ 1977-1980 của chi bộ. Sau khi tốt nghiệp Cử nhân Tôn giáo xã hội học tại Đại học Komazawa Tokyo, HT được kiều bào Phật tử Việt Nam tại Úc thỉnh sang theo diện lãnh đạo tinh thần tôn giáo và định cư tại Sydney (1981). Kể từ đây, ngài lập chùa và gia đình Phật tử đều lấy tên Pháp Bảo – đạo hiệu của Tổ khai tông dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh.
Hòa thượng nắm giữ nhiều vai trò quan trọng tại Giáo hội Úc châu như Tổng Thư ký, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Hoằng pháp, Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Tăng sự (2 nhiệm kỳ), Phó Hội Chủ điều hành (2 nhiệm kỳ), Hội Chủ HĐĐH Giáo hội từ năm 2015 tới nay (2020). Với đạo hạnh cao thâm, HT được cung thỉnh làm tôn chứng, giáo thọ, tuyên luật sư các đại giới đàn tổ chức ở khắp các châu lục, Đàn đầu HT đại giới đàn Quán Thông tại Đức (2019). Ngài được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng sau 40 năm hành hoạt vào 2003. Đối với vấn đề giáo dục, văn hóa được Ngài đặt lên ưu tiên hàng đầu” (ĐĐ Thích Như Tịnh: “Lịch sử truyền thừa Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh). Hòa thượng cũng chuyên tâm việc dịch thuật, biên khảo, trước tác, thơ văn sau hơn 30 năm trên 40 tác phẩm giá trị, như: Kiến thức căn bản Phật giáo, Quy Sơn Cảnh Sách, Bách Trượng Thanh Quy, Đối thoại thiền I, II, III, Diệu lý nhân quả báo ứng, Tông phái PG Nhật Bản, Kinh Hoa Thủ, Tinh Hoa Bát Nhã tâm kinh, Tinh túy những bài kệ tán Phật, Bồ Tát (4 tập), Đạo Đức học PG Đại thừa…
Hòa thượng đào tạo được một số đệ tử xuất gia như TT. Thích Phổ Huân được truyền thừa Trụ trì Tự viện Pháp Bảo (2006) và Thiền Lâm Pháp Bảo, Sư Cô TN Giác Anh – Giám đốc Công trình Xây dựng Thiền Lâm Pháp Bảo và Phật Đài lộ thiên. Nơi đây là di tích lưu lại lâu đời cho mai hậu.
Chư tôn đức môn phái Chúc Thánh tại Úc khởi sự tổ chức lễ kỵ Tổ vào thập niên đầu thế kỷ XXI. Hòa thượng Như Huệ được thỉnh cử làm Trưởng môn phái Chúc Thánh, cứ mỗi năm cúng Tổ luân chuyển ở nhiều tiểu bang vào tháng 12 dương lịch. Sau khi HT Như Huệ viên tịch (2016), HT Thích Bảo Lạc tiếp tục nhận lãnh trách nhiệm điều hợp này.
Những thế hệ kế thừa pháp từ Thầy Tổ với tâm nguyện đào tạo có người nối dòng Phật chủng, là cách đáp đền công ơn trong muôn một.
Từ Lâm Tế Chánh Tông Tam Thập Tứ thế khai sơn Chúc Thánh pháp phái húy thượng Minh hạ Hải, tự Đắc Trí, hiệu Pháp Bảo đại lão Tổ sư.
THÍCH BẢO LẠC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
– 50 năm chấn hưng Phật Giáo – HT. Thiện Hoa.
– Câu chuyện dòng sông (Siddhartha) của Hermann Hesse, Ni trưởng Trí Hải tóm lược. Nguồn tạp chí Giác Ngộ.
– Một số tư liệu mới về Bồ Tát Quảng Đức – Lê Mạnh Thát.
– Mười tôn giáo lớn trên thế giới* của nhiều tác giả, do Hoàng Tâm Xuyên chủ biên, Nxb Đông Phương – Trung Quốc ấn hành năm 1998.
– Tiểu sử danh tăng Việt Nam I, II, III. TT. Đồng Bổn biên soạn, Nxb Tôn giáo, 2017.
– Chân đến – Tục đế dung thông – Thích Bảo Lạc, Pháp Bảo ấn hành, 2012, Sydney – Australia.
– Lịch sử truyền thừa thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, Đại đức Thích Như Tịnh biên soạn, Nxb Phương Đông, 2009.
– Nghệ thuật sống – Mộc Nhiên biên soạn, Nxb Thanh Niên, 2002.
– Kỷ yếu tưởng niệm đức Trưởng lão HT. Thích Như Huệ, Môn đồ pháp quyến in ấn năm 2017 tại Sydney
– Kỷ Yếu Đại hội khoáng đại VI của GHPGVNTN Hải Ngoại UĐL/TTL Ban Kỷ yếu thực hiện 2020, Sydney.